Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

CÂM ĐIẾC TÂM LINH


Chủ đề:
"Nhiều người trong chúng ta bị câm điếc về mặt tâm linh cần được Chúa Giêsu chữa lành"

Một phụ nữ kia có người bạn bị điếc. Ngày nọ bà ta hỏi người bạn muốn được tặng gì vào ngày sinh nhật. Người bạn ấy đáp lại thật bất ngờ: "Xin bạn hãy vui lòng viết thư cho Ann Landers yêu cầu bà ta in lại bảng kinh cầu nguyện cho người điếc. Bà ấy đã từng in nó trước đây vào mục của bà trong một tờ báo, nhưng tôi đã đánh mất bản sao mục đó rồi!". Thế là người phụ nữ đã viết thư cho Ann Landers. Và vào ngày 1.6 ngày sinh nhật của cô bạn, bà Ann đã in lại lời cầu nguyện đó trong cột báo của mình. 


KỲ QUAN THỨ 7


Đền Actêmit một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại được xây dựng từ năm 353 tCn., ở thành phố Êphedut (Ephesus; thành phố cổ ở Thổ Nhĩ Kì) nằm trên bờ biển Êgiê (Ph. Égée; A. Aegean Sea) để thờ Actêmit (Ph. Artémise) – nữ thần săn bắn, con của thần Zơt (Latinh: Zeus; Ph. Jupiter) và thần Lêto (Léto), em gái của thần ánh sáng - thi ca Apôlông (Apollon). 


BẢY KỲ QUAN CỔ ĐẠI - KỲ QUAN THỨ 06.




Vườn treo Babylon  một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại. Theo truyền thuyết, vườn treo Babylon  (Babylon), là món quà đặc biệt của nhà vua Nabusatnêzan (Nabuchadnezzan) tặng hoàng hậu được sủng ái là công chúa xứ Mêđet (Mēdes).








KỲ QUAN THỨ 05.

Tượng Thần Zơt  một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại.Tượng thần Zơt (Latinh: Zeus) cao 17 m, khắc hoạ hình ảnh thần Zơt ngồi trên ngai vàng đầu chạm trần đền, khuôn mặt hiền từ, đôi mắt màu hồng tinh anh, nhìn thẳng, lông mày và lông mi đen nhánh, mũi dọc dừa với chòm râu rậm nhìn ra phía trước, đôi môi dày đầy cương nghị. Dáng ngồi bệ vệ oai nghiêm trên ngai vàng, tay trái cầm gậy chỉ huy, tay phải dựa vào thành ngai. Tất cả phần nửa trên của tượng được dát bằng ngà voi, vàng nhạt ngả về màu hồng phơn phớt, tạo cho thần Zơt một sức sống mãnh liệt. Nửa thân dưới của tượng phủ một “tấm vải” bằng vàng dát mỏng, có chạm trổ dưới thân áo những con vật. Trên thân áo là những ngôi sao và những đoá hoa xinh xắn. Chân thần đi dép vàng đặt trên một chiếc bàn trang trí những con sư tử vàng. Ngai vàng cũng bằng ngà và có chạm khắc những trận đấu điền kinh ở Ôlympi (Olympie). Đến nay, trên quảng trường chính Antit (Altis) ở Ôlympi chỉ còn lại một ít di tích của đền thờ và tượng thần Zơt.

Thần Zơt là vị thần biểu tượng sức mạnh của người dân Hi Lạp, đứng đầu trong 12 vị thần được người Hi Lạp tôn thờ, sống trên ngọn núi Ôlympơ (Olympe; Hi Lạp). Theo thần thoại Hi Lạp, thần Zơt mỗi khi lên cỗ xe thần mã đều mặc bộ áo vàng, cầm một ngọn roi vàng để điều khiển đôi thần mã có bộ vó bằng đồng và hàng lông bờm bằng vàng chói lọi.

(theo “Từ điển bách khoa Việt Nam”, tập 4, xuất bản năm 2005, “Grand dictionnaire encyclopédique Larousse” và “Britannica”).

 Sưu Tầm


Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

KỲ QUAN THỨ 04



TƯỢNG THẦN HÊLIÔT một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại. Trong chuyện thần thoại Hi Lạp, Hêliôt là vị thần thời cổ Hi Lạp, hiện thân của Mặt Trời (Ph. Helios; tiếng Hi Lạp: Hellos – có nghĩa là “Mặt    Trời”). Hêliôt là con trai của thần Hypêriông (Hypérion) và thần Teia (Theia), và là anh trai của nữ thần ánh sáng Êôt (Éos) và thần Mặt  Trăng Xêlênê (Seléné). Thần biển Clymen (Clymēne) có nhiều con trai, trong đó có con thần mã Phaêtông (Phaéton). Thần Hêliôt ngày nào cũng cưỡi trên cỗ xe thần mã (cỗ xe bốn ngựa) với ánh vàng lấp lánh trên bầu trời đi suốt từ đông sang tây, và ban đêm từ dưới đại dương đi lên, say sưa bay lượn vòng quanh cực bắc, đi giám sát loài người, cho nên chẳng có việc gì xảy ra trên mặt đất mà thần không biết. Thần Hêliôt ưa thích lưu lại ở Êtiôpi (Éthiopie) hoặc trên đảo Rôt (Rhodes) và chiếm hữu “đàn” chiên thánh. Những biểu hiện và tín ngưỡng của thần Hêliôt chiếm một vị trí không lớn lắm và đã bị lu mờ một cách rõ nét bởi thần ánh sáng – thi ca Apôlông (Apollon). Thần Hêliôt đã được tôn thờ ở đảo Rôt. Nhưng sớm nhất, chỉ đến đầu thế kỉ 5 tCn., Hêliôt mới được xem như vị thần chính ở đảo này. Dân chúng trên đảo Rôt đã xem ông là vị thần che chở, bảo vệ họ; một pho tượng khổng lồ – tượng thần Hêliôt với vành mũ vương miện toả tia đã được tạc và đặt tại cảng, nơi cử hành tế lễ thần. Tín ngưỡng thần Hêliôt đã đạt được một tầm quan trọng mới, xứng với đạo một thần Mặt Trời, đó là lối thoát của thuyết Platông (Platon) mới.

(Trần Thị Tuyên biên soạn, dựa theo ‘Grand dictionnaire encyclopédique Larousse” và “Britannica”).

Sưu Tầm


KỲ QUAN THỨ 03



Lăng Môdôlơ
  lăng mộ vua Môdôlơ (Mausole, Mausolus) - một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại, xây dựng vào khoảng năm 350 tCn. ở thành phố Halicacnaxơ (Halicarnasse), thủ đô Vương quốc Cari (Carie) nằm ở Tây Á, sát biển Êgiê (Égée). Công trình bắt đầu khởi dựng lúc vua Môdôlơ còn sống, nhằm thể hiện sự phồn vinh và hùng mạnh của đất nước mình sau khi đã thống nhất được Vương quốc Cari. Công việc còn dở dang thì nhà vua băng hà, hoàng hậu Actêmit II (Artémise II)đã tiếp tục và hoàn thành công trình, làm rạng rỡ tên tuổi nhà vua qua kiệt tác kiến trúc này. Công trình được xây dựng bằng đá, dưới sự chỉ dẫn của các kiến trúc sư Pytêôt (Pythéos) và Xatyarôt (Satyaros), phần điêu khắc do Xcôpat (Scopas), Bryaxit (Bryaxis), Lêôkharêt (Léokharês) và Timôtêôt (Timotheos) đảm nhiệm. Công trình có hình khối, gồm ba phần: dưới cùng là phần đế – tầng để thi hài mà dưới chân cũng là một hệ bậc tam cấp; phần giữa bên trong là phòng tế lễ và bên ngoài có hàng cột bao quanh, có tượng trang trí; phần trên cùng là khối mái có dạng kim tự tháp gồm 24 bậc, được kết thúc ở đỉnh bằng một cụm tượng (tượng Môdôlơ và Actêmit). Công trình bị huỷ hoại dần do thời gian, chiến tranh và động đất, đến thế kỉ 16 thì sụp đổ hoàn toàn (khi quân Thổ Nhĩ Kì xâm lăng vùng này). Ngành khảo cổ học đã bỏ nhiều công sức thu nhặt các di vật của công trình quan trọng này và cũng có nhiều dự án phục chế, trong đó dự án của Kiêcsơn (làm những năm 1923 – 28) được coi là chân thực nhất.Lăng môdôlơ chẳng những là một kiệt tác của kiến trúc cổ mà còn là một mẫu mực cho loại hình lăng mộ, từ đó từ Môdôlơ trở thành danh từ chung để chỉ lăng mộ của các bậc vĩ nhân, các vua chúa (Ph. Mausolée; A. Mausoleum; N. Mavzolej).

(theo “Từ điển bách khoa Việt Nam” tập 2, xuất bản năm 2002, và “Grand dictionnaire encyclopédique Larousse”).

Sưu Tầm


Xứ sở của người mù. (2)



 Những người dân định cư ở đây quả đã hoàn-thành một công việc đáng khen ngợi. Thú vật do họ chăn nuôi, sinh sôi nẩy nở, chỉ hiềm có một điều khiến hạnh-phúc của họ không được trọn vẹn. Chỉ mỗi một điều này cũng đủ làm cho hạnh-phúc của họ giảm đi rất nhiều. Một chứng bệnh cổ-quái khiến cho tất cả những đứa trẻ sinh ra ở đây ? và cả rất nhiều đứa lớn hơn ? cùng mắc tật mù lòa. Chính là để đi kiếm một thứ linh dược hay bùa phép thần-diệu về trị bệnh thong-manh mà ông đã chẳng quản mệt nhọc, đường xa hung-hiểm, xông pha lăn lội xuống núi, tìm về quê cũ.


Thứ Hai, 3 tháng 9, 2012

KỲ QUAN THỨ HAI TRÊN THẾ GIỚI.




(2). Kim tự tháp Kêôp. Một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại.
Kim tự tháp là công trình có hình chóp, đáy vuông, thường là lăng mộ của các vua Ai Cập cổ đại. Có ba kim tự tháp lớn: Kêôp (khéops hoặc Chéops), Kêphren (Khéphren) và Mykêrinôt (Mykérynos). Các kim tự tháp được xây bằng những phiến đá lớn, mỗi tháp gồm hàng triệu phiến trung bình nặng 2, 5 tấn…Kích thước của tháp chứa nhiều phép tính kì diệu: lấy chu vi đáy chia cho hai lần chiều cao của tháp sẽ được số P = 3,14; chiều cao của tháp đúng bằng bán kính của hình tròn có chu vi bằng chu vi của đáy tháp, vv. Trong lòng tháp có phòng đặt quan tài chứa xác ướp của vua Ai Cập. Phòng có kích thước 10,47 x 5,23 m, thông với bên ngoài bằng một đường hầm rất hẹp (cao 1 m, ngang 1,05 m) và cửa ở lưng chừng tháp tại độ cao 17,42 m.
     
Kim tự tháp Kêôp là kim tự tháp lớn nhất trong số kim tự tháp, được xây dựng
 trên cao nguyên Ghizê (Gizeh; Ai Cập). Tháp cao 146,60 m (nay chỉ còn khoảng 137 m), mỗi cạnh đáy dài 231 m, được xây dựng trong 40 năm, gồm 2, 3 triệu phiến đá lớn (mỗi phiến trung bình nặng 2, 5 tấn, những phiến ở đáy nặng 55 tấn), được mài nhẵn và xếp chồng khít lên nhau. Trong kim tự tháp có nhiều phòng, hầm và hành lang kiên cố. Hiện nay, thi hài Kêôp không còn.
Kêôp là vua Ai Cập cổ đại, con trai của Xnêfru (Snefrou; vua Ai Cập), pharaông thứ hai của triều đại thứ tư thời Cổ vương quốc (khoảng năm 2600 tCn.). Ông nổi tiếng là do đã chủ trì việc xây dựng kim tự tháp Kêôp làm lăng mộ của mình.
Theo nguồn thông tin ít ỏi liên quan đến Ai Cập cổ đại, Kêôp đã xây dựng được một vương quốc hùng mạnh của giới tăng lữ trong thời đại mà Hêliôpôlit (Héliopolis – một trung tâm tín ngưỡng thờ thần Mặt Trời) bắt đầu đóng vai trò là một thủ đô tôn giáo, bên cạnh Memphit (Memphis) là một thủ đô chính trị.

(theo “Từ điển bách khoa Việt Nam” tập 2, xuất bản năm 2002 và “Grand dictionnaire encyclopédique Larousse”).

Sưu Tầm


BẢY KỲ QUAN THẾ GIỚI.



(1). Hải đăng Alêchxanđri 

Hải đăng Alêchxanđri một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại: tháp đèn biển được xây dựng xong năm 285 tCn. trên đảo Pharôt (Pharos) ở Alêchxanđri (Alexandrie) – thành phố cảng đầu tiên của Ai Cập, trên đường biển qua lại của tàu thuyền người Phênixi (Phénicie) đi từ Tyrơ (Tyr) và từ Xyđông (Sydon) về hướng bờ biển Châu Phi; tác giả là kiến trúc sư người Hi Lạp Xôxtơratut ở Xniđut (Sostratus of Cnidus). Đó là một tháp ba tầng, cao 130 m. Tầng dưới là một toà nhà, mỗi chiều dài 30 m xây bằng những viên đá vôi lớn. Tầng hai xây theo kiểu lầu bát giác bằng đá hoa cương. Tầng ba dặt ngọn đèn hình trụ có vòm che. Trên nóc vòm là tượng thần biển Pôxâyđông (Poséidon) bằng đồng cao 7 m, vòm có những cột đá hoa cương đỡ, không có tường bao quanh để ánh sáng của đèn chiếu khắp nơi nhờ một hệ thống mặt gương bằng kim khí phản chiếu, vì thế ở cách xa 60 km người đi biển vẫn trông thấy. Năm 1302, do động đất, Hải đăng Alêchxanđri đã bị sập đổ. Tên đảo Pharôt, nơi đặt ngọn hải đăng đầu tiên của nhân loại, đã trở thành một danh từ chung trong một số ngôn ngữ ở Châu Âu (như Ph. Phare, N. fara: đèn chiếu). 

(theo “Từ điển bách khoa Việt Nam”,
tập 2, xuất bản năm 2002, và “Grand dictionnaire encyclopédique Larousse”).

Sưu Tầm


XỨ SỞ NGƯỜI MÙ



Cách Chimborazo khoảng hơn ba trăm dậm, cách vùng tuyết phủ Cotopaxi độ một trăm dậm, ở một nơi hoang-vu nhất trong dẫy trường sơn Andes xứ Ecuador, có một cái thung-lũng bí mật, biệt lập với thế-giới bên ngoài, đấy là xứ sở của những người mù. Từ ngày xửa ngày xưa, lâu lắm rồi, người ta đến thung-lũng này bằng cách vượt những hẻm núi vô cùng hiểm-trở và một sơn đạo băng đóng trơn truột, đến những cánh đồng cỏ quanh năm xanh tốt.


Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2012

Hình ảnh 2.09.2012

Tín hữu cùng nhóm nhau lại. 2.9.2012




Cầu nguyện 
 Ca đoàn


Sứ điệp

SỨ ĐIỆP 2.9.2012

LỜI CẢNH BÁO (1)

Kinh Thánh nền tảng. Heboro 3:7-19.

Kinh Thánh Lời Cảnh báo cho chúng ta: Ngày nay, nếu các ngươi nghe tiếng Ngài,8 Thì đừng cứng lòng

1.Kẻ Cứng Lòng:

10 Nên Ta nổi giận với thế hệ đó Mà bảo rằng: ‘Chúng luôn luôn lầm lạc trong lòng,Không biết đến đường lối Ta.’ ”11 Nên Ta đã thề trong cơn thịnh nộ:“Chúng sẽ chẳng được vào sự an nghỉ Ta.”12 Thưa anh chị em, hãy thận trọng để không một ai trong anh chị em có lòng gian ác và vô tín đến nỗi lìa bỏ Đức Chúa Trời hằng sống. 13 Nhưng cứ khuyến cáo nhau hằng ngày đang khi còn được gọi là “ngày nay” để không một ai bị tội lỗi lừa gạt mà cứng lòng, 14 vì chúng ta được dự phần với Chúa Cứu Thế nếu chúng ta giữ vững niềm tin cậy ban đầu của mình cho đến cuối cùng!


2.Kẻ Lầm Lạc.

10 Nên Ta nổi giận với thế hệ đó Mà bảo rằng: ‘Chúng luôn luôn lầm lạc trong lòng,Không biết đến đường lối Ta.’ ”11 Nên Ta đã thề trong cơn thịnh nộ:“Chúng sẽ chẳng được vào sự an nghỉ Ta.”12 Thưa anh chị em, hãy thận trọng để không một ai trong anh chị em có lòng gian ác và vô tín đến nỗi lìa bỏ Đức Chúa Trời hằng sống. 13 Nhưng cứ khuyến cáo nhau hằng ngày đang khi còn được gọi là “ngày nay” để không một ai bị tội lỗi lừa gạt mà cứng lòng, 14 vì chúng ta được dự phần với Chúa Cứu Thế nếu chúng ta giữ vững niềm tin cậy ban đầu của mình cho đến cuối cùng!

Như Kinh Thánh dạy:“Ngày nay, nếu các ngươi nghe tiếng Ngài Thì đừng cứng lòng Như tổ phụ các ngươi trong cuộc khiêu khích Đức Chúa Trời.”16 Ai đã nghe tiếng Đức Chúa Trời rồi lại khiêu khích Ngài? Không phải tất cả những người được Môi-se đem ra khỏi Ai-cập sao? 17 Đức Chúa Trời nổi giận với ai trong bốn mươi năm? Không phải những kẻ phạm tội phải bỏ xác trong đồng hoang sao?

Kết Luận: Lời Chúa quả quyết
18 Ngài thề với ai rằng: “Chúng sẽ chẳng được vào sự an nghỉ Ta?” Nếu không phải là những kẻ không vâng phục. 19 Và chúng ta thấy rằng họ không thể vào được vì lòng vô tín.


Bố cục.

1. Kẻ cứng lòng thì (3:7-9):

- Hay khêu khích
-Thách thức
-Thử Chúa.

2.Kẻo lầm lạc(3:10-17).

- Không biết đường lối Đức Chúa Trời.
- Không được vào sự yên nghỉ.

An nhân tặng quà cho người mù và khuyết tật 


Nhân Tâm