Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

TIÊU ĐIỂM CỦA ĐẠO ĐỨC CƠ ĐỐC

Ghi nhanh

TIÊU ĐIỂM CỦA ĐẠO ĐỨC CƠ ĐỐC

Cơ-đốc Giáo Dục “Lang Thang”?

Hội thánh Chúa chung tại Việt Nam trong những năm gần đây.  Các giáo hệ đang ra sức mở trường thần học và trường Kinh thánh nhiều như “nấm.” Đủ các lớp học, từ xa, tại chỗ và tại lớp…Qua một thời gian quan sát thăm dò có những điều mà chưa có câu trả lời thỏa đáng như sau:


Một số Trường Thần Học(TH) hiện nay chưa có giáo trình chính thức cho bài luận án tốt nghiệp và bài luận văn tốt nghiệp chưa có sự hướng dẫn cụ thể rõ ràng.  Một sinh viên học từ lớp Cử Nhân đến lớp Cao Học cho biết chưa có lần nào Gíao sư của trường dạy về phương cách viết tiểu luận và khi hỏi thăm về cách viết thì mỗi vị giáo sư chỉ nói sơ sơ và mỗi vị nói cách khác nhau(sau này mới biết chính các vị ấy cũng chẳng biết gì cả chỉ nhờ người khác, hoặc thuê viết luận án và có vị chưa từng viết?).

Thực trạng này chắc chắn sẽ không thể tiếp tục xảy ra trong tương lai.  Khi nền Giáo dục Cơ-đốc thật sự được quan tâm.

Ngoài ra Trường TH không có đội ngũ giáo viên hiểu biết “văn phạm”(miễn là mục sư là cứ dạy thôi và F-1; dạy F tiếp theo), những vị này họ không có một chứng từ của một trường học nào, chỉ có các buổi học ngoại khóa”họ nói rằng: mấy ông môn đồ Chúa Jesus ngày xưa có học hành gì đâu mà vẫn là sứ đồ đàng hoàng, ông sứ đồ Phi-e-rơ giảng có mấy phút(theo bản văn Kinh-thánh có mấy mươi câu)mà 3.000 người tin Chúa rồi! Họ tin Chúa có 3 năm thôi là” giảng cừ khôi rồi”.  Điều quan trọng là thấu đáo Thánh-linh và được Ngài xức dầu là đủ rồi!”???  

“Các vị sứ đồ không học thì làm sao mà viết chữ vậy?” Rồi làm sao đọc Kinh-thánh vậy? Hoặc Kinh-thánh che dấu về con đường học vấn của họ chăng?

So với sự tiến bộ của xã hội bên ngoài thì các giáo viên cần phải có khả năng(ơn) sư phạm mới thích ứng và đáp ứng cho công tác giáo dục. 
-Có học viên tâm sự ” ông thầy ấy đọc chữ còn sai, tìm một sách tiên tri, địa chỉ câu chuyện trong Kinh-thánh không ra mà sao lại được dạy?”
-Còn một học viên khác nói rằng:” Thầy “A”, chưa tráng lớp ba mà bây giờ thầy dạy Cao đẳng?”…
Còn lắm việc ẩn náu của giáo viên bị che dấu không nói nên lời. Thật đúng là “sư đã phạm”thật rồi! Các thầy, cô sử dụng tài liệu của các trường khác rồi sử dụng cho lớp học mình và sử dụng sách bồi linh để dạy...  Điều này biểu lộ ở đây cũng khá khôn ngoan, khỏi nhọc công biên soạn; khi dạy thì cảm động chỗ nào thì dạy chỗ đó, xức dầu nơi đâu thì dầu chảy nơi đó…Thầy dạy một nơi cho bài tập thi một nẽo???!

Người ký văn bằng.  Cũng đơn giản miễn là ”mục sư sếp” thì cứ ký ”dù trong dù đụt ao nhà vẫn hơn-sếp ký vẫn tốt” hoặc nhờ mục sư nước ngoài ký miễn là không phải ký chữ ta mà Tây, Tàu, Mỹ là được rồi.  Những nơi đây vẫn phát triển tốt, thế mới tài chứ! Học viên tốt nghiệp rồi, được hỏi thăm thì trả lời”em chẳng biết gì hết trơn hết trọi.”

Vậy thì, (tại những nơi ấy chưa đúng với lời tiên tri Daniel) ” học thức sẽ được thêm lên,” chỉ có lớp học thêm lên, chỉ có bằng cấp phát nhiều và trường học thêm lên, nhưng sự học thức chưa thêm lên. Trong quá khứ, các vị Gíao sư-học viên thật sự có “ơn Chúa ban” vì sau khi ra trường họ giảng khiến nhiều người”cháy” đỏ đôi mắt.  Thánh đường xây dựng khắp nơi, nhưng tới nay so với dân số Việt Nam thì tín hữu quá thấp! Qua đó cho thấy việc thầy giảng dạy như thế nào thì kết quả về sau vài năm là bằng chứng đã cho thấy.

Ngành giáo dục Cơ-đốc của Hội thánh Chúa khắp nơi nhất là tại Việt Nam cứ rầm rộ đua nở như hối thúc một điều gì đó đang sắp xảy ra. “…Nhiều kẻ sẽ đi qua đi lại, và sự học thức sẽ được thêm lên.”(Daniel 12:4b). Một lần nữa, Hội thánh Chúa trên mọi nơi trong và ngoài nước cần chú ý, với tấm lòng hết sức quan tâm và đầy tâm huyết của mình cho công cuộc chấn hưng nền giáo dục . Nhiều buổi bồi linh (giáo dục “ngoài luồng-ngoại khóa”  khiến tín hữu “nhức đầu, không biết đâu mà rờ đây.” Cũng một phần Kinh thánh đó nhưng mỗi vị thầy giảng dạy khác nhau, thầy giảng “nội địa” hoặc hải ngoại mỗi người một ý).

Cũng vậy, mỗi Trường Thần Học, hoặc những lớp học Kinh thánh (Trường Chúa Nhật, Giáo Lý Báp Têm, những khóa huấn luyện nhân sự.v.v.) của mỗi Hệ giáo cũng dạy khác trong cách hành đạo, đối nhân xử thế theo quan điểm thần học riêng của giáo hệ (tuy vẫn chung một vài điều căn bản nào đó gọi là  trọng tâm của nền tảng đức tin như tín lý, giáo lý.v.v.) Một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới nền tảng của lời Kinh thánh và chất lượng giáo dục của từng Hệ giáo.  Đó là nguyên căn sâu xa của rất nhiều vấn đề nảy sinh trong thực trạng giáo dục Cơ-đốc hiện nay: việc dạy học tràn lan, chất lượng thầy giảng dạy kém, đạo đức của giáo viên còn khiêm tốn…Chạy đua bằng cấp còn học lực thì suy giảm. Chất lượng đội ngũ giảng dạy(con người, giáo trình, lớp.v.v.) Các Hệ giáo cần chú ý những vị thầy, họ đã có kinh nghiệm từng trãi về lời Kinh thánh trong đời sống mình?  Đào tạo-xây dựng một đội ngũ thầy giảng dạy có chất lượng/ơn tứ thật sự từ Thánh Linh? – những người nầy có chuyên tâm với Cơ-đốc giáo dục dựa vào Thánh Kinh? 

Các Hệ giáo khi mở trường/lớp, đã thờ ơ việc chọn thầy giảng dạy quên đi sự khảo sát chặt chẽ và quá trình làm việc của họ?, Nhất là thường xuyên lắng nghe sự góp ý của học viên về chất lượng giảng dạy. Bên cạnh đó, xây dựng “khung”môn dạy tương ứng với trình độ đào tạo của thầy dạy để kích hoạt họ. Từ đây, các hệ giáo mở lớp học mới có thể nâng cao chất lượng giáo dục Cơ-đốc. Thiết nghĩ, đây là sự quan tâm đúng đắn đào tạo thế hệ sau không sai lạc ý tưởng của Thiên Chúa qua Kinh thánh, một ý kiến trên hợp lí cho giáo dục Cơ-đốc hiện nay không? Việc giáo dục Cơ-đốc của Hội thánh Chúa chung hiện nay đã có hướng đi quá”tự do” so với khung mẫu của việc giáo dục trong lịch sử Thánh Kinh. Xâm nhập nhiều ý tưởng bên ngoài Kinh thánh “thầy giảng dạy(tiên tri) thời sau rốt” quá nhiều.

Việc chấn hưng Cơ-đốc giáo dục Hội thánh Chúa là hết sức cần thiết nhằm sản sinh những thế hệ Cơ-đốc nhân mới trong Christ phù hợp với công cuộc truyền rao Phúc âm trong thời kỳ cuối cùng. Để làm được việc này các Hệ giáo cần chú tâm triển khai nhiều nội dung, công việc một cách hiệp nhất không xa rời Kinh thánh.  Giảm thiểu giáo điều, những người có trách nhiệm trong nền giáo dục đã có bao giờ tự đánh giá khả năng của mình liệu còn phù hợp để đảm nhiệm công tác này không? Thầy giảng dạy có thường cập nhật ý muốn Chúa bằng sự cầu nguyện, thêm sự học hỏi Kinh thánh liên tục để có thể chuyển tải tới người học những điều giá trị từ Thánh Kinh là quan trọng, hay hơn và hiệu quả hơn không?  Hay là có những lý thuyết trên bục dạy suông mà không hề có kinh nghiệm thuộc linh nào trong đời sống? Người có thẩm quyền nên thường xuyên có những khóa bồi dưỡng mục vụ dạy và kiểm tra chất lượng, khả năng và kinh nghiệm thuộc linh. Cuối cùng là việc kiểm tra học tập của học viên. Khuyến khích học sinh tự nghiên cứu, thường xuyên đọc sách, thảo luận theo nhóm để trao đổi tìm giải quyết vấn đề, lúc này chính giáo viên đóng vai trò cố vấn và hướng dẫn.

Với bối cảnh chung của các Hệ giáo đã và đang đi vào chiều hướng  giáo dục Cơ-đốc “phồn thịnh-phức tạp”, ảnh hưởng của các Hệ giáo lớn, có sức mạnh, uy thế, lâu năm và việc giáo dục Cơ-đốc có một hệ thống-thống nhất rất cần thiết để xoa dịu các “xung đột ngấm ngầm” từ quá khứ vẫn tồn đọng trong lòng các giới tăng lữ lãnh đạo và khiến tín đồ tạo nên những bức tường vô hình để chỉ trích nhau.  Tuy không công khai nhưng tận sâu trong lòng luôn phê phán, thậm chí lên án “nó là tà giáo.”

Khi vai trò của các Hệ giáo có bề thế tạo nền móng sâu xa trong xã hội được phục hưng, ảnh hưởng tinh thần này sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho việc kỷ cương, sắc lệnh và những lệ luật ra đời khống chế tín hữu và các “quan sư cấp dưới” phải thuận phục.  Tín hữu, ai ai cũng tôn kinh các “vua chúa” trong ban lãnh đạo, nhưng khi bất hòa thì vô số những thông tin bất ngờ nóng hổi, gây ra tình trạng trả thù, báo oán tinh vi hơn người bên ngoài đạo giáo - một vấn đề hiện vẫn gây tâm lý bất an ở những người đang phục vụ nhất là giới tín hữu,“không biết sư nào thật thầy nào giả - Hệ nào đúng hệ nào sai?”. Bởi mỗi một hệ giáo thì có một nền giáo dục Cơ-đốc khác nhau, chồng chéo và đôi khi nghịch lại.  Với niềm tin căn bản những tín lý sơ đẳng mang tính từ bi, bác ái được thấm nhuần trong lòng mọi giới tín đồ, nhưng trong thật tế tín hữu thấy những sinh hoạt sống hằng ngày thì đối lập lại những gì trong sự dạy dỗ dỗ từ giới thầy và sư. Khiến một số tín đồ đang hoang mang!  Làm sao có thể tạo ra được trạng thái tâm lý hài hoà, theo tình thần bao dung của lẽ thật- chân lý khi giảng dạy.

Đúng ra, các sư chủ của những Hệ giáo đóng vai trò trung gian để giải tỏ được các trở ngại tâm lý trong tiến trình xây dựng các Hội thánh Chúa chung. Vai trò này rất quan trọng trong những bước đối thoại, khi giáo quyền hình thành muốn giữ thể diện của phía đương quyền, cá nhân có quyền.

Với bản chất “xác thịt” của Hội thánh Chúa chung đang dung chứa quá nhiều yếu tố mâu thuẫn với nhiều lý luận bảo vệ cho mình là đúng còn Hệ giáo của những nhóm Tin Lành khác đang sinh hoạt là sai” tà giáo”, viễn ảnh xảy ra các biến động trong nền giáo dục Cơ-đốc, một bức tường càng dầy, càng lớn... mỗi ngày gia tăng một nhiều và nặng nề hơn. Nếu như các Hệ giáo không ngồi chung với nhau tại thế được thì làm sao có thể sống đời đời tại một nơi gọi là vĩnh hằng?(đây là một sự giả dối. lừa gạt và khốn nạn nhất) không được điều chỉnh nhanh chóng hoặc thay đổi một cách chân thật, thì biến động và cơ hội cho “tà giáo”chắc chắn sẽ bộc phát.

Khi nào vai trò của các Hệ giáo bình đẳng, tôn trọng, hiệp nhất về giáo dục Cơ-đốc và truyền giáo thực sự thì lúc ấy Hội thánh Chúa mới được Thánh linh thăm viếng và điều mong ước được phấn hưng chắc chắn sẽ xảy ra.  Tín hữu thật sự an lành, phước hạnh thê xác và tâm linh.

CHÚA JESUS, ĐẤNG GƯƠNG MẪU  ( Giă 13:15).

Trong những năm thi hành mục vụ Chúa Jesus bày tỏ chương trình Cứu-rỗi nhân loại của Thiên ý định, Ngài luôn luôn quan tâm đến những linh hồn lạc mất của nhà Israel (Mat 10:6,15:24) nói riêng và nói chung là những tội nhân trong vòng dân ngoại(Mat 12:18;Congv 9:15,22:21,26:17;Rom 1:15,3:29, 15:16,16:4)đã sai lạc nơi trần thế.  Cả hai sẽ trở nên một trong Hội thánh Ngài(Rom 9:24,11:25; Gal 2:8; Eph 3:6).

Bối cảnh lúc bấy giờ Do thái giáo là tôn giáo đang lầm lạc dạy dỗ có xui hướng theo dòng chảy làm theo công đức, họ mang gánh nặng về luật lệ và tôn giáo nầy khiến người dân Israel hành đạo mang màu sắc giả hình trong đạo đức(Mat 6:2,5,16,7:5, 23:13,15,25,27-29; Mác 7:6; Luca 6:24,13:15).  Chẳng những như vậy giới giáo quyền còn răn đe trong việc huấn thị theo lối mòn cũ kỹ và ấu trĩ của họ(ITim 4:2). Tàn nhẫn nhất là họ sẵn sàng ném đá khi ai đó phạm luật. Chúa Jesus đã chỉ trích vô số những sự sai lạc bởi”nghe mà chẳng hiểu-học mà chẳng hành”(Mat 13:13-14,19).  Ngài thẳng thằng phê phán và nêu ra một lẽ thật về một Tin Mừng lớn cho muôn dân và lối sống đạo đức cũ bị loại trừ(Mat 9:1617; Rom 7:6; 2Cor 5:17; Heb 8:13), cùng với đó là các lời công bố lối sống mới được thiết lập trên giao ước mới bằng chính huyết của Ngài (1Cor 11:25; 2Cor 3:6; Heb 9:15,12:24)ấn chứng trong Thánh Linh(Eph 1:13,4:30).  Điều nầy được sứ đồ Phaolo tuyên bố sự cứu rỗi hoàn toàn theo ân điển và đức tin là sự ban cho đến bởi Đức Chúa Trời(Eph 2:8-9). Trong khi con người luôn mang nặng tôi phải làm gì đó để được cứu rỗi hoặc lập nhiều công đức để bình an và tín hữu phải cố gắn nỗ lực(Rom 3:20,28).  Tuy rằng, tín hữu vẫn biết” không ai làm điều lành, không một người công chính trên đất và chẳng có ai tìm kiếm Đức Chúa Trời.” (Thi 14:1,3, 36:3,52:3,53:1,3; Rom 3:12). Chỉ duy nhất bởi quyền năng Thánh Linh Đức Chúa Trời cảm động(Ne 9:20) và tự Ngài vận hành trên mỗi cuộc đời người tín hữu thì mới khai sáng được tâm trí con người đồng thời sẽ mang lại kết quả cho một đời sống đạo để tín nhân Cơ-đốc phất triển(Giă 3:5,Congv 1:8, Rom 8:26; 1Cor 2:11-14,12:3-9,11; Gal 5:22; Eph 3:5; Tit 3:5;1Giă 3:24).

Nêu gương về đời sống đạo(Heb 5:8; Rom 14:19,15:2) là một trong những mục vụ góp phần phát huy tác dụng cho một đời sống mới trong Christ, theo chuẩn mực đạo đức Cơ-đốc của Ngài, là sử dụng những hình mẫu đạo đức được thể hiện cụ thể qua những câu chuyện ngụ ngôn, trực quan sinh động trong hiện thực qua nhiều sự diệu kỳ xảy ra nhằm tác động có mục đích về sự cứu chuộc trong quyền năng, cùng với thẩm quyền, hệ thống nền tảng đức tin đến ý thức tình cảm đạo đức sâu đặm của tín hữu đối với nhau trong cộng đồng và sự ban cho Thánh Linh để thôi thúc tín hữu học tập: nghe, (thấy, hiểu, biết) và làm theo (đúng y như lời đã nghe). Tuy nhiên, đạo đức Cơ-đốc không phải ai muốn thực hành theo là được nếu không bởi ý muốn Đức Chúa Trời trong năng lực Chúa Thánh Linh và sự xưng công chính bởi huyết của Chúa Jesus Christ bao phủ thì mọi cố gắn nỗ lực hành đạo của con người điều vô ích. Cho dù đạo đức Cơ-đốc không phải mới được đưa ra và áp dụng đối với con dân Thiên Chúa.  

Lãnh Đạo.(2Phi 1:5-6, Mat 17:27)

Chính Chúa Jesus đã thể hiện bằng chính đời sống (Heb 5:8;1Phi 2:21,5:3), “lời nói và việc làm.” Có một câu nói của người đời xưa:“Dĩ nhân nhi giáo, dĩ ngôn nhi giáo” (nghĩa là, trước hết phải giáo dục qua sự thể hiện chính đời sống của mình, sau đó mới giáo dục bằng lời nói), và trong các tác phẩm của quyển Kinh thánh đều nêu cao lý tưởng: “Vua sáng, tôi hiền”(Rom 11:36, 15:7; 1Cor 10:31; 2Cor 4:15; Gal 1:5; Eph 1:6,12,14,17; Khải 4:11, 5:13,19:1).(nghĩa là nêu mọi sự đều phải qui vinh hiển về cho Đức Chúa Trời và những tín nhân như là các tôi tớ biết vâng phục trọn vẹn theo thánh ý Ngài).

Những người thi hành mục vụ của mình khi đứng vào vị trí lãnh đạo trong dân sự họ đang có xui hướng muốn tạo ra sự đồng thuận, quy tụ và tập hợp sức mạnh của hội chúng những đều đáng trách tại đây là chỉ giả hình theo màu sắc tôn giáo trống rỗng hay khếch trương, phóng đại tôn mình là sư và buộc dân sự phải trọng đạo. Sự qui nạp này để tạo thêm uy tín đạo đức và đưa bản thân mình đến đỉnh cao của vinh quang. Yếu tố luật lệ lại được đặt lên hàng đầu, trở thành chuẩn mực trong điều chỉnh hành vi đạo đức của con người, vì thế tìm kiếm đời sống nêu gương về đạo đức Cơ-đốc dường như không có. Kinh thánh tuyên bố:” Dẫu muốn tìm một người cũng không.” Điều đó cũng đồng nghĩa, luôn đề cao thành quả cá nhân và coi trọng giáo điều trong việc xây dựng Hội thánh và giáo dục tín hữu cũng như trong quản lý xã hội. Trong khi đó, Kinh thánh luôn lên án cảnh cáo những nguy cơ cho “những ai tự tôn mình lên sẽ bị hạ xuống”(Mat 23:12;Lu 14:11,18:14) Nói theo cách bên ngoài xã hội là “bọn lãnh đạo vô lại hay bọn tham lam hách dịch sớm muộn cũng đều bị tiêu diệt bởi sự công chính của Thiên Chúa.” Do vậy, có thể nói, nêu gương về đời sống đạo đức Cơ-đốc chính là thể hiện nét văn hóa của Thánh Kinh có một đặc thù cao trọng, bày tỏ ảnh tượng Thiên Chúa. “Muốn biết Chúa như thế nào thì hãy nhìn vào đời sống của tôi tớ Ngài.”(Mat 7:16-20,12:3)

Lãnh đạo đúng nghĩa là biết học hỏi lịch sử Kinh thánh dựa vào văn hóa Kinh thánh(Phục 4:32, 5:1;1Sam 5:7-8;Thi 119:7,71,73;Châm 1:5, 16:23,Esai 1:17,26:9), để chính mình khôn ngoan biết sống theo lối sống theo văn hóa Cơ-đốc(Daniel 1:17; Giă 6:45; Congv 7:22) và sẽ đượcThánh Linh chỉ dẫn bày tỏ cho phương thức giáo dục độc đáo(Esai 50:4;Congv 18:25; Phil 4:9).“con chó sống hơn sư tử chết.”(Truyền 7:4). Trong cộng đồng tín nhân Cơ-đốc, nhất các vị lãnh đạo Hội thánh Chúa được thừa kế một di sản văn hóa không bao giờ lạc hậu “ vì trời đất sẽ qua đi nhưng Lời Chúa sẽ bao giờ thay đổi cho dù một chấm đến một nét”(Mat 5:18). Bởi điều ấy, dân sự sẽ phát triển và nâng lên tầm cao mới trong Đấng Christ, đồng thời Thánh Linh vận hành khiến cho trong mọi sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong giáo dục đạo đức Cơ-đốc cho các tầng lớp trong hội chúng, nhất là đối với đội ngũ: Hội đồng Trưởng lão, ban chấp sự và nhân sự... Nếu không thế hệ sau sẽ là một thảm họa khó lường (1Sam 8:3,5; 2Các 16:3,17:15, 23:32,37,24:9,19) ảnh hưởng đến mọi người, mọi dân chung quanh(Exe 5:15; Rom 16:17) và gặt lấy hậu quả(Mat 13:41, 16:23).

Rõ ràng, nêu gương sống đạo, đạo đức Cơ-đốc là một nhu cầu(1Cor 8:1, 10:23, 1Tes 1:7;2Tes 3:9, 1Tim 1:16,4:12; Tit 2:7), thể hiện niềm tin căn bản, đồng thời là phương pháp chứng đạo hết sức độc đáo và hiệu quả trong việc giáo dục đạo đức Cơ-đốc. Trong mục vụ của Chúa Jesus, Ngài truyền dạy những căn bản cụ thể về đạo đức Cơ-đốc liên quan đến sự kết thúc của một cuộc đời con người để nhận lấy sự đời đời của tương lai về đời sau hoàn hảo-trong sự sống vĩnh hằng. Văn hóa Kinh thánh của Thiên Chúa phát họa hiện nay vẫn còn nguyên giá trị, trở thành một di sản vô giá đối với mọi từng lớp trong cộng đồng Cơ-đốc giáo.

Gia Đình

Sự nêu gương đạo đức Cơ-đốc của gia đình. Bên ngoài xã hội con người vẫn có rất nhiều tấm gương về đạo đức trọng tâm vào những người quản lý xã hội, những bậc vĩ nhân, quân tử…Trong cộng đồng Cơ-đốc, mỗi tín hữu ai cũng có sự tự chủ(Gal 4:31), đồng thời là đối tượng của giáo dục đạo đức. Do đó, mỗi tín hữu Cơ-đốc cũng có thể và cần phải luôn nêu gương sáng về đạo đức Cơ-đốc. Theo đó, gia đình là một thành viên rất quan trọng cho sự phát triển Hội thánh, cha mẹ cần là tấm gương Cơ-đốc cho con cái, anh chị là tấm gương đối với các em. Cũng vậy, mỗi người là một thành viên có quyền trong trách nhiệm nêu gương cho những người khác… Nêu gương thì trước hết phải làm gương trong mọi công việc từ nhỏ đến lớn”trung tín trong việc nhỏ trước nhất…”; trong lối sống và cách ứng xử; trong lời nói việc làm, nói phải đi đôi với làm,”lời nói nêm thêm muối..có ân hậu…”. Trong việc nêu gương, Cơ-đốc nhân có ba mối liên quan: bày tỏ về Đức Chúa Trời, về chính mình và về những người chung quanh. Kinh thánh cho biết “nhìn cây biết trái-nhìn vào việc làm để biết con người(Mat 7:16-20,12:33).” “hoa nào thì hương nấy.” Hoặc “thầy thế nào thì trò sẽ thế ấy.” 

Hiện nay vẫn có không ít bậc cha mẹ quan niệm đơn giản rằng, chỉ cần đảm bảo cho con cái mình những điều kiện vật chất đầy đủ và lựa chọn những ngôi trường uy tín để học tập là sẽ được tô luyện trưởng thành về mọi mặt. Nhưng xem nhẹ, thậm chí bỏ quên việc giáo dục theo Kinh thánh, có khi coi thường hơn những sự huấn giáo bên ngoài. Trái lại, thực tiễn đã chứng minh, sự giáo dục theo Kinh thánh chu đáo của gia đình(Phục 6:7-8;1Các 2:3;Châm 13:14) nhất là bằng những tấm gương đạo đức của chính những người thân có vai trò to lớn đối với sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của những thành viên trong nhà. Bởi lẽ, đây là công việc rất quan trọng nhằm tạo nền tảng đức tin Cơ-đốc vững chắc, tiền đề xuất phát cho giáo dục đạo đức trong nhà trường và ngoài xã hội; Nhất là Hội thánh, bởi gia đình là “quan thể trong chi thể của thân thể Đấng Christ”, là môi trường quan trọng trong việc giáo dục lối sống và hình thành nhân cách Cơ-đốc cho mỗi người tín nhân ngay từ buổi còn thơ cho đến khi trở về già vẫn không sai lạc(Châm 22:6). Gia đình đầm ấm, phước hạnh thì Hội thánh làm sáng danh Chúa. Nói cách khác, “quan thể của Hội thánh” có khỏe mạnh(IIIGia 1:2), có tầm thước vóc giạc hay không là tùy thuộc vào từng (quan thể) gia đình. Để phát huy vai trò nêu gương của gia đình trong việc giáo dục đạo đức Kinh thánh cho mọi thành viên, đòi hỏi mỗi thành viên trong mỗi gia đình phải là những tấm gương sống đạo mẫu mực theo Kinh thánh(2Tim 3:15)P. Trong thật tế đó, ông bà cần làm gương cho con cháu, cha mẹ làm gương cho con cái, anh chị làm gương cho các em; đồng thời, cần sử dụng những tấm gương tiêu biểu trong Kinh thánh của các tiền nhân về đời sống đạo, của các thành viên trong gia đình và dòng họ qua các thế hệ để giáo dục con cháu…

Mỗi gia đình phải thực sự là một “tổ ấm giáo dục” để mỗi người thành viên cùng được lớn lên trong tình cảm chân thành tốt đẹp, với tràn đầy tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau của những người thân(2Tim 5:8). Mặt khác, chính những tấm gương đạo đức Cơ-đốc của người lớn sẽ có tác dụng kích thích sự tự giáo dục và rèn luyện của lớp trẻ. Sự thống nhất giữa giáo dục và tự giáo dục làm cho giáo dục của gia đình có ý nghĩa sâu sắc đối với sự hình thành và củng cố tình cảm đạo đức cho mỗi con người(1Tim 5:4).

Hội Thánh

Sự tiếp tục của giáo dục từ gia đình, giáo dục đạo đức trong Hội thánh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành ý thức và nhân cách đạo đức Cơ-đốc của tìn hữu. Hội thánh là nơi định hướng tín hữu phát triển toàn diện, không những trang bị về mặt kiến thức hiểu biết Kinh thánh, mà còn giáo dục cả về sống đạo, lối sống; tạo môi trường lý tưởng cho tín hữu hình thành và phát triển nhân cách đạo đức Cơ-đốc(Tit 3:14). Giáo dục Cơ-đốc trong môi trường của Hội thánh là giáo dục theo nền tang từ trong Thánh kinh, có hệ thống và có sự kết hợp phong phú; do đó đây là sự bổ sung hết sức cần thiết cho việc giáo dục đạo đức trong gia đình và Hội thánh. Tuy vậy, để giáo dục đạo đức Cơ-đốc Hội thánh thực sự có chất lượng và hiệu quả, ngoài việc bảo đảm sự hài hòa cân đối về nội dung, thời gian… cần đặc biệt coi trọng sự nêu gương về đạo đức của chính đội ngũ giảng viên/mục sư. Uy tín, sức thuyết phục của người giảng viên trước hết phải thể hiện bằng trình độ tri thức toàn diện, uyên bác; đồng thời là lòng kinh mến Chúa - tình cảm yêu người; là sự mẫu mực trong lối sống Cơ-đốc, gần gũi với tín hữu hoặc người học, v.v. Do vậy, đội ngũ mục sư là giảng viên trong Hội thánh cần thường xuyên thức tĩnh và cầu nguyện cho phẩm chất đạo đức Cơ-đốc, năng lực sư phạm và mục vụ giảng dạy; để cho tín hữu học tập và noi theo. Thực sự tấm gương mẫu mực về nhân cách đạo đức chỉ duy nhất là Chúa Jesus và con người thì luôn luôn bất toàn.  Do vậy, hãy xin Thiên Chúa Thánh Linh để có sự khôn ngoan thông sáng. 

Cùng với giáo dục trong gia đình và Hội thánh là sự tiếp tục quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện ý thức đạo đức và năng lực thực hiện hành vi đạo đức cho tín hữu. Hội thánh là cộng tác viên chính thức của gia đình là môi trường góp phần làm phong phú thêm cho những điều tín hữu được nghe-thấy; đồng thời, đây còn là nơi sẽ giúp thêm kinh nghiệm đức tin và sự thử thách bản lĩnh Cơ-đốc, ý chí và năng lực thực hiện nhu cầu đạo đức của từng cá nhân tín hữu. Do vậy, để giáo dục đạo đức cho tất cả mọi thành viên, cần phát huy vai trò của môi trường đời sống đạo; trong đó cần hệ thống Kinh thánh với các giá trị lẽ thật-chân lý, chuẩn mực sống đạo và tự chủ rèn luyện tín hữu theo những chuẩn mực Kinh thánh. Mặt khác, cần cầu nguyện luôn luôn, cho việc xây dựng - phát triển cũng không quên với việc chống trả - bài bác; trong đó cần nhịn nhục, khiêm nhường khắc phục những yều điểm trong sự thêm sức từ Chúa và từng bước đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực và tà giáo xuất hiện trong Hội thánh đã và đang có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ - lôi cuốn, trực tiếp đến lẽ thật khiến tín hữu hoang mang như hiện nay, như: chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu tham lam, sùng bái đồng tiền, sự thoái hóa, biến chất về đạo đức Cơ-đốc, về lối sống cũ vẫn còn tồn tại ở những tín hữu khác, thói hư tật xấu, lối sống xa rời Kinh thánh, lầm lạc theo thần tượng, trái với chuẩn mực đạo đức Cơ-đốc.

Sự kết hợp chặt chẽ và linh hoạt giữa gia đình và Hội thánh trong việc giáo dục đạo đức Cơ-đốc cho từng thành viên. Sự hợp thành sự thống nhất được định hướng rõ ràng để việc giáo dục tạo ra hợp lực cùng một hướng hành đạo, tránh phân sự chia rẽ hoặc phản lực triệt tiêu lẫn nhau.

Một minh họa.

Vài Nét Văn Hóa Đạo Đức Của Người Hàn Quốc

Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng với văn hóa Việt Nam do cùng nằm trong khu vực ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Và cũng như người Việt Nam, người Hàn Quốc đã đặt dấu ấn độc đáo của mình lên phần văn hóa vay mượn làm cho chúng trở nên khác biệt so với văn hóa gốc. Xứ sở nầy có 51% dân số Hàn Quốc có tín ngưỡng tôn giáo: 49% theo đạo Phật, 49% theo Kitô giáo: 38% theo Tin lành và 10% theo Công giáo(ngày nay Cơ-đốc giáo đang đà phát triển hơn số liệu nầy), 1% là tín đồ đạo Khổng, 1% còn lại theo các tôn giáo khác. Trong vài thập niên vừa qua, thế giới chứng kiến sự phát triển ngoạn mục của Cơ Đốc giáo tại Hàn Quốc. Theo thống kê năm 2007 của chính phủ Hoa Kỳ,(CIA Factbook) gần một phần ba (26,3%) dân số Hàn Quốc xưng nhận đức tin Cơ Đốc. Các giáo hội thuộc cộng đồng Cải Chánh (Protestant) như Trưởng Lão, Phong trào Ngũ Tuần, và Giám Lý chiếm khoảng 19,7% dân số, trong khi số giáo dân Công giáo là khoảng 6,6%, mặc dù những nguồn dữ liệu khác ấn định con số tín hữu Cơ Đốc ở tỷ lệ cao hơn, đến 49%. ( HRW WORD ATLAS).

Đức tin người Cơ-đốc Cải Chánh được truyền bá vào Hàn Quốc năm 1884 bởi hai nhà truyền giáo người Mỹ: Henry Apenzeller thuộc Giáo hội Giám Lý  Horace Underwood thuộc Giáo hội Trưởng Lão (Colin Whittaker, Korea Miracle, Eastbourne, 1988, p. 133.).  Đặc biệt quan tâm đến công tác phổ biến Kinh Thánh (đã được dịch sang tiếng Hangul từ năm 1881 đến năm 1887 bởi Mục sư John Ross, một nhà truyền giáo người Tô Cách Lan tại Mãn Châu) những nhà tiên phong Cải Chánh thiết lập các cơ sở giáo dục tại Hàn Quốc.(Andrew C. Nah, A Panorama of 5000 Years: Korean History,Seoul, 1983, p. 81.). Trường Paejae dành cho nam sinh thuộc Giáo hội Trưởng Lão thành lập năm 1885, còn Giáo hội Giám Lý mở trường Ehwa - nay là Đại học Phụ nữ Ehwa - dành cho nữ sinh vào năm kế tiếp. Cùng với nhiều ngôi trường khác được thành lập sau đó, hai cơ sở giáo dục này đã góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng mau chóng của đức tin Cải Chánh trong vòng đại chúng, đến đúng thời điểm đã giúp đức tin Cải Chánh vượt qua Công giáo để trở nên tiếng nói lãnh đạo trong cộng đồng Cơ Đốc giáo tại Hàn Quốc. Cũng trong giai đoạn này số lượng phụ nữ biết chữ tăng cao, trước đó họ không được hưởng được gì từ hệ thống giáo dục của đất nước (Cho, Kwang (August 1984). "The Meaning of Catholicism in Korean History". Korea Journal 24 (8): pp. 14–27. ISSN 0023-3900.).

Bởi ơn Thiên Chúa thương xót người Nam Hàn, cho thấy sự ảnh hưởng ban đầu của sự kiện văn hóa Cơ Đốc giáo đã đem đến Hàn Quốc một nền giáo dục hiện đại đã được đề cập ở trên. Một thực tế tiến trình phát triển chữ viết Hangul qua công tác truyền bá văn chương Cơ Đốc và qua mạng lưới trường học được thành lập bởi các Hội Truyền Giáo đã giúp nâng cao mặt bằng văn chương của đất nước. Chữ Hangul, dù được phát kiến từ năm 1446 bởi những học giả trong triều Vua Sejong (Thế Tông), trong suốt vài thế kỷ vẫn không được quan tâm vì cớ ưu thế văn hoá vượt trội của chữ Hán. Đối với Cơ-đốc giáo trong thời điểm nầy, Thiên Chúa sử dụng Giáo hội Công giáo là tổ chức đầu tiên chính thức công nhận giá trị chữ Hangul. Giám mục Berneux (tử đạo năm 1866) yêu cầu tất cả trẻ em Công giáo cần được học để biết đọc loại chữ này. Đồng thời các hệ giáo Tin Lành Cải Chánh cũng đòi hỏi tín hữu phải biết đọc chữ Hangul như là điều kiện tiên quyết để được dự thánh lễ Tiệc Thánh. Giới phụ nữ biết đọc chữ Hangul gia tăng mau chóng, trong một xứ sở mà phụ nữ từ lâu vẫn bị loại khỏi hệ thống giáo dục. Tạ ơn Thiên Chúa Ngài đã làm những việc kỳ diệu trên loài người!

Đạo đức Cơ Đốc giáo đóng vai trò quan trọng trong tiến trình chuyển đổi văn hóa-đời sống con người tại nhiều quốc gia trên thế giới vào những năm gần đây, Hàn Quốc một quốc gia từ xã hội phong kiến sang xã hội có nền văn hoá hiện đại. Đạo đức Cơ-đốc được hình thành từ Thiên Chúa và phát triển trên cơ sở nền tảng là Kinh thánh, tĩnh thức-cầu nguyện, đồi xử nhau bằng tình cảm, cả lý trí của con người chứ không phải bằng cưỡng chế và luật lệ. Do vậy, giáo dục đạo đức cho tín hữu trên cơ sở vận dụng những phương pháp nêu gương về đạo đức của Đấng Christ là hết sức cần thiết, không phản khoa học dẫn đến hiệu quả và cho thấy một kết quả hơn những gì con người hiểu biết. Giáo dục đạo đức Cơ - đốc cho tín hữu theo phương thức này, chính là một con đường chân lý, lẽ thật và sự sống.  Biện pháp tốt nhất góp phần xây dựng những con người mới trong Đấng Christ - nhân tố bảo đảm nền móng vững chắc cho tương lai của Hội thánh và của đại gia đình Đức Chúa Trời trong nước vinh hiển Ngài.

Kết Lại

Sự chờ đợi ”học thức sẽ được thêm lên, nói cách khác ơn Chúa ban dư dật.”trong Hội thánh để tuôn tràn ra bên ngoài xã hội.  Đương nhiên xã hội ngày nay con người có sự học thức đang đà phát triển(thêm lên) rất mau, những phát minh mới, khiến ai có sự quan tâm phải bất ngờ, từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Các lớp đào tạo Cơ-đốc giáo dục ”mọc lên như nấm-bằng cấp nhiều như rơm.”  Vài năm sau, mọi người sẽ thấy kết quả của những“cây nầy” sẽ như thế nào?



Sự Kỳ Diệu Của Đôi Mắt

Sự Kỳ Diệu Của Đôi Mắt.

Những ai còn có đôi mắt thì thật diễm phúc và phước hạnh.  

Nhất là khi Thiên Chúa ban cho một đôi mắt đẹp.








Nhưng có một số anh chị em tín hữu đã mất đi đôi mắt có phải là bất hạnh không? Có những ai còn đôi mắt mà vẫn mù lòa không?















Ánh Mắt Thế Gian.

Trong “thế gian” con người thường chú ý ánh mắt để nhận xét về một người khác khi tiếp xúc cho nên họ thường quan sát và xem xét đến đôi mắt. Có lẽ vì thế cho nên trong dân gian khi ám chỉ đến kẻ xấu nết, hư tính thường khuyến cáo nên cẩn thận đại loại như: ”Lợn kia trắng mắt thì nuôi, người kia trắng mắt chớ chơi mà phiền.”  Câu nói trên ám chỉ về đôi mắt như chưa vừa lòng về việc nhận xét nầy, trong xã hội con người còn nói đến sự liên quan các bộ phận khác như: “Nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ lộ.” và phán xét người phụ nữ:“Những người mắt trắng môi thâm. Ví chẳng hại chồng thì cũng hại con.”  

Ngày xưa có một người tên là Lót, ông Lót bèn ngước mắt lên, thấy khắp cánh đồng bằng bên sông Giô-đanh, là nơi (trước khi Đức Giê-hô-va chưa phá hủy thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ)…(Sáng 13:10).  Hậu quả khôn lường trước được…


Ánh Mắt Đức Tin.

Theo người Cơ-đốc giáo thì Thiên Chúa dạy bảo và đã loại trừ ý tưởng trên. “Vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy.”(IICor 5:7)  “mắt của Chúa đoái trông người công bình,Tai Ngài lắng nghe lời cầu nguyện người, Nhưng mặt Chúa sấp lại nghịch với kẻ làm ác.” (IPhi 3:12)  và mọi người hãy hiệp một trong ánh mắt rạng ngời thật đáng quí không tranh chấp, ganh tị… (ICor12:16-21)

Ông Áp-ram được Thiên Chúa khải thị nên ông vâng phục nhìn bằng đức tin.  Ánh mắt đức tin của ông đã được Thiên Chúa kể ông là công chính.


Tiếng Nói Từ Đôi Mắt .

Trên khuôn mặt của mỗi một con người cần có một làn da tươi sáng, khỏe mạnh và cũng không thể thiếu đôi mắt rạng ngời một cách tự nhiên. Đây luôn là mơ ước của tất cả chúng ta, nhất là những anh chị em khiếm thị họ cần có đôi mắt là biết bao. “Nhưng có mấy ai đã mù lòa mà được sáng mắt lại”.  Người Do-thái sống vào thời Chúa Jesus rất nhiều người Khiếm thị và Tật nguyền nhưng chỉ một số người Chúa chọn để được chữa lành chứ không hoàn toàn ai cũng được. Đôi mắt thật tuyệt vời trong vắt được nhìn thấy ở nơi mỗi con người đang có mặt trên thế giới thiên nhiên được Thiên phú ban một cách vô điều kiện. Nhưng cũng rất nhiều người đã mất đi đôi mắt từ khi chào đời và do những tai nạn xảy ra khiến họ khiếm thị suốt cả cuộc đời… 

Đôi mắt không chỉ gây ấn tượng cho người đối diện khi tiếp xúc, những cử động khẻ của đôi mắt và liên tiếp chính là thứ lưu lại lâu dài trong lòng, một tiếng sét xuyên thủng bức tường tâm trí, một sự dối trá lộ ra khiến họ khó quên nhau và cũng bởi đôi mắt đó tạo nên một cảm tình sơ khởi rồi thân quen, nhất là khi ai đó lần đầu mới gặp bị cuốn hút vào ánh mắt long lanh như thể muốn nói lên điều gì đó mà âm thanh không vang thành lời.

Đôi mắt rạng ngời của hai con người khi bất chợt hay vô tình chạm vào bởi những lần chớp mắt tự nhiên là con đường dẫn đến yêu thương và chắc chắn trái tim rung động bồi hồi khi hai ánh mắt chạm nhau, mấp máy, khe khẻ, nhẹ nhàng và cứ liên tục thật ấn tượng. Còn trong sâu thẳm, thấy cả nỗi ám ảnh từ những đôi mắt ấy tuy chưa bộc lộ bằng hành vi. Biểu lộ một sự cảm xúc hoặc sự khinh bỉ cũng từ đôi mắt.

Dù chỉ là ngôn ngữ cảm xúc không lời thay cho điều không thể nói, thì vẫn cảm nhận đầy đủ cả niềm vui hồn nhiên, nỗi buồn man mác, những ao ước của anh chị em khiếm thị còn gặp nhiều nghèo khó nhọc nhằn.  Ánh mắt phát ngôn không bằng lời chỉ những cái mấp mái đã ẩn chứa tận sâu thẩm trong trái tim và đáy lòng của con người.  Nhưng thật đáng thương làm sao anh chị em chưa từng biết cảnh bầu trời, màu sắc,hình ảnh những người thân và đối với họ đôi mắt là gì?

Câu hỏi muôn thuở mà chưa nhận được, chắc được khi hỏi người khiếm thị ước ao và cầu xin điều gì? Nghẹn ngào trong dòng lệ “đôi mắt.”

Hiểm Họa Từ Đôi Mắt

Thánh Kinh lời Đức Chúa Trời, từ những trang đầu của sách đã công bố về một ‘phiên tòa’.  Ngày hôm đó, sự dại dột của con người biểu hiện qua ánh mắt ‘mù lòa’ đã sanh ra thảm họa cho cả dòng lịch sử con người với những bi kịch phải gánh lấy(Sáng 3). Hậu quả của đôi mắt nầy đã dẫn các thế hệ loài người đến sự chết mà con người đầu tiên chịu thảm họa nầy là Abên bởi một gương mặt có ánh mắt giận dữ giết người(Sáng 4 :5-6).

Thật vậy, từ một sự việc xảy ra, chúng ta sẽ nhìn với ánh mắt như thế nào về một sự việc? một hoàn cảnh… Kinh thánh Sangth ch 40 ghi nhận có hai người trong tù nhìn thấy trong một đêm tối hai người thấy sự việc có khác nhau.“Sẽ có sự sống và sẽ nhận cái chết!”  Cũng tương tự vậy,ở trong song sắt của cửa tù, hai người nhìn ra bên ngoài trong một buổi tối: Một người nhìn thấy: Một con mương hôi thối với cả ngàn con chuột to tướng! Người kia nhìn thấy: Một bầu trời đầy ánh sao đang chiếu sáng và làng gió thoảng mát ơi là mát !

Mỗi con người có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà họ có thê thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm con người mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Thiên Chúa soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xóa tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng.

Theo Kinh thánh Ma-thi-ơ 6:22-23. Chúa Jesus công bố toàn thân thể của con người có ánh đèn là đôi mắt. Đôi mắt ấy trong sạch chiếu rọi, thì toàn thân con người đó sẽ trong sáng. Còn nếu đôi mắt mang ẩn chứa điều xấu, thì toàn thân người ấy sẽ sống một cuộc đời trong tối tăm tội lỗi. 

Ngoài ra, một mối nguy cơ cho cả thể xác là con mắt xui cho cho phạm tội.  thì đây là việc người tín hữu phải chấp nhận chịu mù lòa(nghĩa đen)để nhận lấy sự vinh hiển trong tương lai. Tâm trí không thông sáng, sự ngu dại cũng biểu hiện trên đôi mắt (Mat 13:14 ; Mác 8:18), sự giận dữ (Sáng 4:5) và sự ganh tị cũng phát lộ từ đôi mắt(Mat 20:15;Mác 7:22;1Gia 2:11). Khi thể xác mệt mõi(Mat 26:43), sự gian dâm, dỗ dành và lòng tham dục từ đôi mắt cũng nói lên cho mọi người nhận biết(IIPhi 2:14).  

Đôi mắt cũng không ít lần thoi thúc môi miệng kết án người khác(Mat 7:3-5) nghe được tiếng nói trong lòng của người khác cũng từ ánh mắt nói ra(Mac 3:5,34;Mac1:11; Lu 16:23) Đôi mắt cũng khá thông minh để có đủ sự khôn ngoan nhận lấy sự vinh hiển của cứu rỗi(Lu 2:30; Eph 1:18)và bày tỏ sự dâng trào của cảm xúc(Cong 20:19,31,2Cor 2:4;2Tim 1:4; Kh 21:4 ).

Vậy nếu, thay vì tín hữu là biểu hiện ánh sáng chiếu ra nhưng ngược lại nơi ấy trở thành bóng tối, thì sự u tối biết chừng nào ! (Mat 5:29,18:9;Mác 9:47)

Gía Trị Từ Đôi Mắt

KinhThánh tuyên bố: “Bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được,” (Rom 1:20)  Vậy, đôi mắt được Thiên Chúa tạo dựng như thế nào?Chúng ta cùng xem xét về kỳ công nầy của Tạo Hóa mà trân trọng giá trị của đôi mắt mà Ngài ban tặng cho con người.

Trong các quan thể con người, đôi mắt là bộ phận khá tuyệt diệu chỉ có một Đấng Chủ thể thật thông suốt, Toàn tại, Toàn tri và Toàn năng mới có đủ sự khôn ngoan tạo dựng hình thành đôi mắt và Ngài bố trì ngay trên phần đầu của thân thể con người.  Đôi mắt được cấu tạo rất phức tạp thứ nhì sau bộ não. 

Theo một hệ thống về đôi mắt như sau: mắt có khoảng 40 hệ thống phụ riêng biệt, gồm võng mạc (retina), con ngươi (pupil), tròng đen (iris), giác mạc (cornea), thấu kính (lens) và thần kinh thị giác (optic nerve). Ví dụ, võng mạc có khoảng 137 triệu tế bào đặc biệt đáp ứng ánh sáng và gửi tín hiệu đến não.  Khoảng 130 triệu tế bào này trông giống những cái que điều khiển hình trắng đen.  Bảy triệu tế bào còn lại hình nón và giúp chúng ta thấy màu sắc.  Các tế bào võng mạc nhận những dấu in ánh sáng, được chuyển thành xung lượng điện và gửi đến não qua dây thần kinh thị giác. Một bộ phận đặc biệt của não gọi là võ não thị giác (visual cortex) chuyển dịch những xung lượng đó thành màu sắc, độ tương phản, độ sâu, v.v., khiến chúng ta thấy “hình ảnh” của thế giới chung quanh con người.  Thật không thể tưởng nổi, võng mạc, thần kinh thị giác và võ não thị giác là những hệ thống phụ thật hoàn toàn tách biệt và khác hẳn nhau.  Tuy nhiên, cùng nhau hiệp ý ghi nhận, chuyển tải và chuyển dịch lên đến 1,5 triệu tín hiệu xung lượng trong một mili-giây!  Cần phải có hàng chục máy siêu vi-tính Cray được cài đặt tuyệt hảo và cùng hoạt động không lỗi lầm mới đạt được gần mức thực hiện nhiệm vụ này.

Qua đó, sự long lanh của đôi mắt chân thật nói lên lời nhìn nhận, bày tỏ và biết tạ ơn. Biểu hiện tấm lòng người ấy biết ơn và thay lời cám ơn(Mac 6:41; Lu 7:38). Đôi mắt cũng đem nhiều phước hạnh về cho thân thể(Mat 13:16) ánh mắt mấp máy bơi hàng mi và sáng bừng như “biết nói và muốn nói”một điều gì đó… Thật lạ lùng quá sức cho sự hiểu biết của con người!  Rõ ràng nếu tất cả hệ thống phụ đó không thực hiện tuyệt hảo cùng lúc, thì mắt sẽ không hoạt động và thành vô dụng.  

Hoạt động tâm linh của mắt vượt xa hơn nữa vì “mắt là đèn của thân thể” (Ma-thi-ơ 6:22-23)mở ra cả một thế giới tương lai kỳ diệu của linh hồn quý hơn cả thế gian. Không thể có văn minh nếu không có ánh mắt chân thật.  Nói cách khác, mắt thay đổi thế giới bằng cách thay đổi mỗi một cá nhân trong thế giới đó. Trên một gương mặt của con người mắt là một thành viên thật quan trọng cho cả khuôn mặt "đôi mắt đẹp" và "thuyết phục". Mắt đẹp tự nhiên, hiền hòa. Đôi mắt có chan chứa tình yêu nên thu hút vào một định hướng tương lai cho cuộc đời.

Đôi mắt chính là phương tiện giúp bạn quan sát và phán đoán thế giới xung quanh. Nhờ có đôi mắt trong sáng mà cuộc sống của chúng ta đầy màu sắc hạnh phúc. Nhưng đôi mắt còn ẩn chứa những điều kỳ thú mà đôi khi con người chưa có dịp khám phá. Sự thật là có một thay đổi nhỏ trong kích thước của đôi mắt kể từ lúc bé chào đời đến tuổi xế chiều từ giã cuộc sống.

Khi vừa chào đời, mắt có đường kính khoảng 18mm. Trong vòng một năm sau đó, kích thước này tăng lên đến 19,5mm. Một người trưởng thành có đường kính của mắt vào khoảng 24-25mm và nhãn cầu bằng 2/3 kích thước một quả bóng bàn. Như vậy, trong suốt cuộc đời của con người, đôi mắt chỉ lớn thêm được khoảng 28% so với kích cỡ ban đầu. Con người nhận biết ánh sáng thông qua màu của chúng. Tuy nhiên, con người chỉ có thể nhận biết ánh sáng có bước sóng trong khoảng giới hạn từ 380Nm - 740Nm. Đây là dải nhìn thấy của ánh sáng (quang phổ). Chính từ dải quang phổ này, Issac Newton đã chia ánh sáng làm bảy loại là đỏ, da cam, vàng, xanh da trời, xanh đậm, chàm và tím.

Năm 1790, nhà nghiên cứu Thomas Young cho rằng chúng ta chỉ nhìn thấy được ba màu là đỏ, xanh đậm và vàng. Các màu khác chỉ là sự pha trộn của ba màu cơ bản đó. Năm 1878, ông Ewald Hering đã đưa ra một lý thuyết về bốn gam màu cơ bản là đỏ, xanh da trời, vàng và xanh đậm. Theo đó, khi bốn màu cơ bản trên pha trộn với màu trắng hoặc đen sẽ tạo ra các loại màu sắc khác nhau mà con người có thể nhận biết.

Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa thật sự có một con số định lượng chính xác về số lượng màu mà con người có thể nhận biết được. Nghiên cứu gần đây nhất cho thấy con người có thể nhận biết được những sự khác biệt rất nhỏ giữa các màu. Các nhà nghiên cứu cho rằng con người có thể nhận biết được tối thiểu là khoảng 10 triệu màu khác nhau. Tuy nhiên, con số trên chưa hoàn toàn chính xác bởi trong mỗi nền văn hóa khác nhau thì cách phân biệt màu sắc cũng tương đối khác nhau. Nếu đeo kính sát tròng, chúng ta sẽ cảm nhận rõ hơn sự thay đổi này. Thời gian để lông mi hồi sinh là từ 4 - 8 tuần. Lông mi cùng với mí mắt có tác dụng bảo vệ đôi mắt khỏi bụi bẩn cũng như ngăn chặn các thành phần lạ xâm nhập mắt.

Các giác quan của con người chúng ta bao gồm thính giác (tai), khứu giác (mũi), xúc giác (da), vị giác (lưỡi) và thị giác (mắt). Chúng liên quan chặt chẽ với nhau và tiếp nhận, xử lý thông tin cùng lúc. Tuy nhiên, theo những nghiên cứu mới nhất, thị giác(mắt) là giác quan ưu việt và phát triển nhất của con người.

Màu mắt của chúng ta được quyết định bởi số lượng melanin - một loại sắc tố màu nâu đen có trong mống mắt. Nếu thiếu melanin, mắt sẽ có màu xanh, còn dồi dào melanin lại cho mắt có màu nâu. Do vậy, những người có tóc và da màu sậm thường là những người có hàm lượng melanin cao, do vậy mắt họ thường có màu nâu.

Trong khi đó, những người có tóc và da màu sáng thường là những người có hàm lượng melanin thấp và do vậy mắt họ thường có màu nhạt hơn. Điều này cũng giải thích nguyên nhân phần lớn mắt của trẻ sơ sinh thường sáng màu hơn so với người lớn, do hàm lượng melanin của trẻ sơ sinh còn thấp. Nói chung rất hiếm người có hai màu mắt, nhưng đối với động vật thì điều này là khá phổ biến như ở ngựa, mèo và chó. Điều này có nguyên nhân từ sự biến đổi gen kiểm soát màu sắc. Đó có thể là một sự kế thừa sinh học tiêu biểu hoặc do những tổn thương trong sắc tố của mắt vì sử dụng thuốc.

Đã bao giờ bạn thử vừa hắt xì hơi vừa cố mở to mắt chưa? Chắc chắn một điều là bạn không thể làm được điều đó. Hắt xì hơi là một phản ứng ngẫu nhiên của cơ thể khi mũi chúng ta bị kích thích. Hắt xì hơi tạo ra một xung lực tác động lên toàn bộ cơ thể, bao gồm vùng bụng, ngực, cổ và mặt. Xung lực đó tác động lên các cơ ở mặt, làm cho mí mắt tự động khép lại. Phản ứng này là hoàn toàn tự động và ta không thể làm ngược lại được.
Hắt xì hơi gây ra một áp lực lớn lên đầu và cơ quan hô hấp. Do vậy, có thể xem sự khép lại của mí mắt là một cơ chế tự vệ.

Một khảo sát cho thấy, 70% số người mù tại Việt Nam là do mắc bệnh đục tinh thể. Trong đó có tới 35% không biết mình mắc bệnh hoặc nghĩ rằng bệnh này không thể chữa khỏi, nên mặc kệ. Riêng ở độ tuổi 75, có tới 59,2% bị giảm thị lực do thoái hóa điểm vàng liên quan tuổi tác. Một thực tế không thể phủ nhận, nhiều người dân Việt Nam rất thờ ơ với sức khỏe đôi mắt. Khi giảm thị lực hoặc rối loạn thị giác (cận thị, mỏi mắt, khô mắt, mờ mắt), người ta thường đổ vấy cho dấu hiệu lão hóa của tuổi tác và hậu quả là mù lòa. Thờ ơ với đôi mắt, hầu hết thị lực giảm đến 80%, có người vĩnh viễn sống trong bóng tối.

Mắt em là một dòng sông,Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em...”(Lưu Trọng Lư). Mắt sẽ giúp các thi sĩ, họa sĩ và nhạc sĩ sự cảm hứng. Đôi mắt thường xuất hiện trong những bài thơ-ca, trong văn chương nghệ thuật cũng không ít lời phê phán khi đôi mắt “dại khờ” và cũng nhiều lời ca tụng mắt là hồn cho thơ, như dòng suối chảy trong xanh, như mùa thu gợi buồn và như mùa hè gợi nhớ.

Ánh Mắt Yêu Thương Từ Đôi Mắt Nhân Từ

Trong cuộc sống bận rộn như hiện nay, không ít anh chị em quên đi sự chăm sóc đôi mắt một cách chu đáo, thờ ơ khi nhìn những người chung quanh có khi vô tình hay cố ý đã để đôi mắt bộc lộ một ánh mắt khinh rẻ người khác. Nhất là khi nhìn thấy những người bên lề của xã hội: mù, tật nguyền, nghèo đói, góa bụa, mồ côi… Chúng ta sẽ sử dụng đôi mắt như thế nào cho phải lẽ? Có những ánh mắt nghiêng thành đổ nước.  Có những ánh mắt thiên tán hạ đởm. Nhưng chỉ một ánh mắt biến đổi linh hồn và cứu chuộc thế gian: Ánh mắt của Thiên Chúa.   Và đó cũng là ánh mắt của những Cơ-đốc nhân ngày hôm nay và cho đến đời đời. Hãy có một đôi mắt thật sự yêu thương qua hai phương diện với Đức Chúa hãy hết lòng kính yêu Ngài và cũng không quên yêu con người bất toàn như chúng ta.(Mat 22:37; 12:30-31,33, 16:27; Rom 1:9;1Phi 2:17)

Ánh mắt nhân từ, cảm thông nhìn biết sự khốn khó của những người khác mà chính Chúa Jesus đã gương mẫu, Ngài quan tâm đến tất cả những nhu cầu của họ, Ngài sẵn sàng chịu đau thương vì họ, Ngài đã thay đổi Phierơ, để rồi ánh mắt đó biến thành lời sự sống và qua đó ông có thể thay đổi thế giới một cách kỳ diệu.(Lu-ca 22:61, 62; Mác 10:21).  Tất cả những gì Chúa muốn nói với Phierơ gói trọn trong ánh mắt ấy(Lu-ca 22:31, 32).  

Ánh mắt Chúa vẫn đang nhìn chúng ta mỗi ngày, từng giờ phút. Trong vòng chúng ta ai đã từng bắt gặp ánh mắt của Ngài lần nào chưa? cho dù chỉ một lấn! Ánh mắt Ngài yêu thương nhưng đầy quyền năng và tràn ngập sự sống, sức sống mới đầy sung mãn cho những ai tin nhận Ngài(Gia 10). Chung quanh chúng ta cũng không ít những ánh mắt đang nhìn chầm chầm vào đời sống chúng ta, để xem xét, để kêu cầu, van xin điều gì đó hoặc chúng ta đang nhìn mọi người với ánh mắt như thế nào? Ánh mắt như thì thầm không phát ra âm thanh nhưng chứa chan một lời yêu thương. Năng quyền Chúa ở ánh mắt yêu thương chân tình. Và ánh mắt đó sẽ làm việc lớn và vĩ đại cho thiên quốc, vì nó tuôn chảy từ dòng sông yêu thương; cũng như ánh nắng đã tuôn dòng suối ánh sáng chảy từ mặt trời vĩ đại. Con mắt là tài sản vô giá, vậy nên chúng ta hãy biết cách giữ gìn và bảo vệ nó, dù bằng bất cứ hình thức nào. Đừng để những thói quen và sự thờ ơ của chính bản thân cũng như cộng đồng hủy hoại tài sản vô giá đó.

Để kết thúc bài viết nầy, chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa chỉ dẫn như sau:
Ai cũng có những ước mơ vậy “Hãy ước ao cho được sự ban cho lớn hơn hết. Bây giờ, tôi sẽ chỉ dẫn cho anh em con đường tốt lành hơn.”(1Cor 12:11) đó là ánh mắt mắt Yêu Thương(Gia 15:9,12,17; 1Gia 3:11,4:11).  Thậm chí “yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mat 5:44; Lu 6:27,32,35;Mat 5:46; Gia 13:34,35) và đôi mắt yêu thương thì không có thể ám hại người khác.(Rom 13:10). Ánh mắt yêu thương phản chiếu từ đôi mắt nhân lành của Thiên Chúa nên Ngài đã chịu hy sinh mọi sự thay cho chúng ta. (Gia 10:17, 13:1, 17:24; Eph 2:4, 5:2;1Gia 4:9) và không có điều chi có thể tách rời chúng ta khỏi ánh mắt của sự yêu thương thật nhân từ của Thiên Chúa(Rom 8:35-39)  Sau cùng đừng vương vấn nợ nần chi khi còn sống tại thế chỉ mất nợ yêu thương(Rom 13:8)

Thưa anh chị em, chúng tôi phải luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa về anh chị em : đó là điều phải lẽ, vì lòng tin của anh chị em đang phát triển mạnh, và nơi tất cả anh chị em, lòng yêu thương của mỗi người đối với người khác cũng gia tăng.”(2Tes 1:3) Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa,vì Thiên Chúa là tình yêu (1Gia 4:8) và đừng tiêu diệt ánh mắt của tình yêu(Khải 2:4)
Amen!