Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2012

ĐỨC CHÚA TRỜI NGÀI ĐANG TẶNG BẠN MÓN QUÀ VÔ GIÁ...

MÓN QUÀ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI




Thập tự giá. Bạn có thể xoay khắp hướng mà không thấy một cái nào không? Trên nóc của một nhà thờ nhỏ. Khắc trên những mộ bia trong nghĩa địa. Khắc trên những chiếc nhẫn hoặc treo trên những chuỗi hạt. Thập tự giá là biểu tượng chung của toàn bộ Cơ Đốc giáo. Một chọn lựa kỳ quặc, bạn có nghĩ như vậy không? Kỳ lạ là một dụng cụ dùng để tra tấn có thể trở thành biểu tượng của niềm hy vọng. Biểu tượng của những niềm tin khác có vẻ lạc quan hơn: 


ĐỨC CHÚA TRỜI NGÀI THẬT LẠ LÙNG DIỆU KỲ.

LỜI MỜI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI




Tôi nhớ khi bảy tuổi, tôi đến nhà ông bà ngoại ở một tuần. Mẹ và cha mua một vé, đưa cho tôi một số tiền để xài, đưa tôi lên xe buýt, và dặn tôi đừng nói chuyện với người lạ hoặc chỉ xuống xe buýt khi thấy bà tôi ở ngoài cửa sổ. Bố mẹ dặn tôi rất rõ là chỗ đến của tôi là Rall, bang Texas.  


THEO BẠN CÓ ĐỨC CHÚA TRỜI KHÔNG?


Nếu Không Có Thượng Đế


Ngắm núi đồi hùng vĩ, biển cả mênh mông, ngước nhìn bầu trời bao la, bí ẩn, tôi thấy mình thật bé nhỏ, giới hạn trong một xó xỉnh của vũ trụ lớn lao vô tận. Nói chi đến vũ trụ bao la, chỉ cần nhìn dòng người qua lại trên phố phường, tôi cũng đã thấy mình không khác gì con cá cơm trong đại dương. Rồi nhìn chính mình, tôi cũng không hiểu nổi, ngay cả khối óc trong tôi giúp tôi suy nghĩ, phát biểu những điều này. Tại sao tôi có mặt trên cõi đời này? Tại sao tôi có mặt nơi này mà không phải nơi khác trong vũ trụ? Tại sao



THEO BẠN CÓ ĐỨC CHÚA TRỜI KHÔNG?


CÓ THƯỢNG ĐẾ KHÔNG???


Gần đây nhà vật lý nổi tiếng của Anh Quốc Stephen Hawking trong quyển The Grand Design (Kế hoạch Vĩ Đại) mới xuất bản năm 2010 viết rằng vũ trụ không cần Đấng sáng tạo vì vật chất tự nhiên theo quy luật của thiên nhiên gom góp lại mà tạo thành, vì sáng tạo có nghĩa là tạo một vật từ chỗ không có gì. Lời tuyên bố của Hawking khiến nhiều người hoang mang.


TIN TỨC TỐT LÀNH CHO BẠN

Bức Tranh Đời Người.




Đời người thật ngắn ngủi! Ngắn ngủi mà lại nhọc nhằn, buồn nhiều hơn vui, cực nhiều hơn sướng. Vĩ nhân của nước Do Thái là Môise, đã than thở về đời sống rằng:
“Sự kiêu căng của nó chỉ là lao khổ và buồn thảm, vì đời sống chóng qua, rồi chúng tôi bay mất đi” (Thi Thiên 90:10).

Căn cứ vào Kinh Thánh, là Lời của Đức Chúa Trời ban cho nhân loại, chúng ta có
được bốn bức tranh về cuộc đời của con người:

1. Tội lỗi theo đuổi
2. Sự chết chờ đợi
3. Thì giờ qua mau
4. Được cứu rỗi hay hư mất.
Đó là những chặng đường mà cả nhân loại phải trải qua để đến nơi hạnh phúc đời đời, hay đến chốn hình phạt mãi mãi.

TỘI LỖI THEO ĐUỔI

Trong đời không có gì kinh khiếp bằng tội lỗi. Tội lỗi đã làm cho lòng người bại hoại, gia đình tan nát, nhân loại điêu linh. Tội lỗi làm cho chúng ta mất phước. Tội lỗi như một vực sâu không đáy phân rẽ chúng ta với Đức Chúa Trời. Ở đây chúng ta ví sánh tội lỗi giống như một con cọp rình mồi. Như khi Chúa cảnh cáo Ca-in, Ngài phán: “Còn như ngươi chẳng làm lành, thì tội lỗi rình đợi trước cửa, thèm ngươilắm” (Sáng Thế ký 4:7). Tội lỗi đuổi theo con người chẳng khác nào một ác thú, và nó sẽ theo kịp mỗi người vì “mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời... Chẳng có một người công bình nào hết, dẫu một người cũngkhông” (Rôma 3:23,10).

Trước mặt Đức Chúa Trời, ông vua cũng như dân, nhà triệu phú cũng như kẻ bần cùng, thì “linh hồn của cha cũng như linh hồn của con, linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết” (Êxêchiên 18:4).

Tuyệt vọng rồi chăng?

Xin bạn cũng đừng lầm tưởng rằng nhờ tiền bạc mà bạn thoát được tội lỗi. Trái lại, chính sự mê tiền bạc là cội rễ mọi điều ác. Kinh Thánh cảnh cáo kẻ giàu rằng: “Conlạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Đức Chúa Trời” (Mác 10:25). Ngay cả khi khi bạn tu thân tích đức, ăn chay ép xác, hay tuân hành các điều luật của một tôn giáo ... cũng không giúp bạn thoát được tội lỗi và hậu quả kinh khiếp của nó, vì sự công bình của con người chỉ là một chiếc áo dơ trước mặt Đức Chúa Trời. Trong lúc đó thì lòng người lại đầy dẫy “sự không công bình, độc ác, tham lam, hung dữ, ghen ghét, chẳng tin kính, kêu ngạo, thờ hình tượng, phù phép ...” (Rôma 1:29, Galati 5:19-20).

Ngày xưa, một nhân vật nổi tiếng là Phaolô đã từng hãnh diện về đời sống đạo đức của mình. Nhưng ngay khi nhận biết Chúa Giê-xu, ông cũng biết rõ về tội lỗi của mình và than rằng: “Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi khỏi thân thể hay chết nầy?”(Rôma 17:24).

SỰ CHẾT CHỜ ĐỢI

Sự chết là hậu quả của tội lỗi. Mọi người đều có tội nên mọi người đều phải chết. Theo Kinh Thánh, chết là phân rẽ. Hiện nay tâm linh của chúng ta đang chết. Vì tội lỗi phân rẽ chúng ta khỏi Đức Chúa Trời, là nguồn sự sống. Đó là lý do nhiều người cảm thấy tâm linh mình trống rỗng và buồn chán. Rồi một ngày nào đó, thân thể của chúng ta sẽ chết, tức là linh hồn phân rẽ khỏi thân thể. Và cuối cùng, chúng ta sẽ chết đời đời cả phần thể xác lẫn phần hồn linh của nơi hình phạt, tức là bị phân cách vĩnh viễn khỏi Đức Chúa Trời. Năm nay mất mùa còn mong năm tới được mùa. Song sau sự chết là sự phán xét không thay đổi của Đức Chúa Trời, như Kinh Thánh cho biết rằng: “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét” (Hêb 9:27). Sự phán xét đó đưa người ta đến nơi chịu hình phạt đời đời, còn gọi là hỏa ngục. Dầu Đức Chúa Trời rất yêu thương, nhưng cũng rất công bình, nên phải phạt người không chịu ăn năn tội, không tin nhận Chúa Giê-xu làm cứu Chúa của mình.

Mọi người đều đang bị tội lỗi hành hại, chế ngự và luôn sống trong đau đớn, bất an. Vì thế, con người tìm mọi cách để được giải thoát. Nhưng con người đã hoàn toàn thất bại, lòng chúng ta vẫn đầy tội lỗi và hỏa ngục vẫn chờ đợi chúng ta ở bên kia sự chết. Người phạt người có nặng lắm là khổ sai, có lâu lắm là chung thân, đến chết là hết; song Trời phạt người thì cả linh hồn và thân thể phải chịu đau khổ suốt ngày đêm cho đến đời đời vô cùng.

“... địa ngục là nơi sâu bọ... chẳng hề chết và nơi lửa chẳng hề tắt...(Mác 9:47-48). “Họ sẽ bị hình phạt hư mất đời đời, xa cách mặt Chúa” (2 Tês 1:9).

“Còn những kẻ hèn nhát, chẳng tin, đáng ghê tởm, giết người, gian dâm, tà thuật, thờ thần tượng, và tất cả những kẻ nói dối, thì phần của chúng là hồ có lửa và diêm sinh rực cháy. Đó là sự chết thứ hai” (Khải huyền 21:8).

THÌ GIỜ QUA MAU

Mỗi ngày qua là mỗi bước chân đưa nhân loại đến gần sự chết và sự khổ hình đời đời. Dầu muốn hay không, bạn cũng phải bước đến chỗ đó. Điều đáng kinh khiếp làbạn không thể tránh được chỗ ấy.

Xin bạn xem bức tranh thứ ba:

Trên rừng có cọp đuổi theo, ở dưới có cá sấu há mồm chực sẵn, con người phải đeo lủng lẳng ở giữa như chuông treo chỉ mành. Thế mà có hai con chuột một trắng, một đen, cứ thay nhau cắn sợi dây. Hai con chuột ấy chỉ về ngày và đêm thay nhau rút ngắn cuộc đời của bạn. Hết ngày lại đêm, hết đêm lại ngày khiến cho đời người qua mau như bóng câu qua cửa sổ. Trước cảnh tượng hãi hùng đó, hãy lắng tai nghe tiếng kêu la kinh khiếp của tội nhân: “Tôi phải làm chi cho được cứu rỗi?”, “ Khốn nạn cho tôi, ai sẽ cứu tôi?”

Chúa yêu thương muốn cứu bạn ra khỏi tình trạng kinh khiếp đó.

Hoàn toàn tuyệt vọng.

ĐƯỢC CỨU RỖI HAY BỊ HƯ MẤT

Chúc tụng Đức Chúa Trời, vì chỉ một mình Ngài, Đấng Tạo Hóa toàn năng, có quyền cứu rỗi con người. Cảm tạ Đức Chúa Trời, vì Ngài yêu thương con người, tạo vật của Ngài, và ban ơn cứu rỗi cho họ.

Ơn cứu rỗi đó đã được Đức Chúa Trời hoạch định tổ phụ của loài người, là Ađam và Êva, nghe theo lời của ma quỉ, sinh lòng kiêu ngạo và phạm tội với Đức Chúa Trời. Và hậu quả của tội lỗi là sự chết. Hơn hai ngàn năm trước đây, vào đầu công nguyên, ơn cứu rỗi đó đã được thực hiện qua Chúa Cứu Thế Giê-xu. Ngài đã chịu chết để gánh thay bản án tội lỗi của con người. Nhưng Ngài đã sống lại và về trời, chứng tỏ Ngài là Đức Chúa Trời, Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết. Thập tự giá của Chúa Giê-xu là phương cách duy nhất, là chiếc cầu bắt ngang qua vực sâu tội lỗi và sự chết, là con đường dẫn tội nhân về cùng Đức Chúa Trời, là bí quyết thoát khỏi tội và thắng hơn tội.

Trước đây khá lâu tôi có nghe một câu chuyện cảm động. Tại một thành phố kia có hỏa hoạn vào ban đêm. Trên tầng lầu thứ ba có bốn cha con đang ngủ. Khi giựt mình tỉnh dậy, thì họ không thể xuống được, vì lửa đã cháy từ tầng dưới. Họ cần trổ mái nhà, lên nóc để tìm con đường thoát. Họ nhìn thấy dãy nhà bên cạnh không bị cháy. Nhưng giữa hai nhà có một khoảng trống độ hơn một thước. Đó là con đường duy nhất để họ thoát thân. Người cha nhảy qua một mình, nhưng không thể mang con theo. Lòng yêu con như trời cao bể rộng không cho phép ông tự cứu mình mà để cho ba con phải chết. Lửa cháy mau quá, chẳng mấy chốc lửa đã đến gần họ.

Bấy giờ người cha chỉ còn một cách là hysinh cứu con. Ông đem toàn lực bám các ngón chân vào tường bên này, rồi ngã mình qua bên kia, lấy hai tay bám chặt vào tường, dùng chính thân mình làm cái cầu bắt ngang. Ông kêu các con: “Các con ơi, mau bò qua”. Hai con lớn tuy sợ lắm nhưng đã qua được, chỉ còn đứa nhỏ nhất không dám bò qua. Ông hối thúc: “Con ơi, mau lên, mau lên! Sức của Ba không thể chịu lâu hơn nữa!” Tội nghiệp! Khi em ấy vừa qua xong, thì ông mỏn hơn phải buông thả tay chân mà chết.

Anh chị em ơi, Chúa Giê-xu đã bằng lòng giáng thế và chịu chết trên cây thập tự. Vì sao Chúa phải chịu như thế? Vì anh em và tôi, để cứu chúng ta khỏi tội lỗi, khỏi hình phạt đời đời của hỏa ngục.

Nếu anh chị em cố ý từ chối Ngài, thì không có phương cách nào chuộc tội lỗi nữa. Xin anh chị em nghe Lời Chúa phán:

“Ai tin Con (Chúa Giê-xu) thì được sự sống đời đời, ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người ấy”(Giăng 3:36).

“Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác, vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta nhờ đó mà được cứu” (Công vụ 4: 12).

“Nếu ta còn trễ nãi sự cứu rỗi lớn dường ấy, thì làm sao tránh cho khỏi được?”(Hêbơrơ 2:3).

“Sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống là điều kinh khiếp thay!” (Hêbơrơ 10:31).

Bây giờ anh chị em đã thấy bốn bức tranh vẽ rõ đời mình, nên xin anh chị em hãy chọn lựa, vì cơ hội được cứu rỗi chính là ngay hôm nay, và có lời Chúa hứa rằng:

“Bây giờ hãy đến, cho chúng ta biện luận cùng nhau. Dầu tội các ngươi như hồng điều, sẽ trở nên trắng như lông chiên” (Êsai 1:18).

Ngay giờ này, anh chị em hãy ăn năn tội lỗi mình và thành thật thưa với Chúa:

“Chúa Giê-xu ôi, xin Ngài cứu con! Con thành thật tin nhận Ngài là cứu Chúa của con. Xin Chúa tha tội cho con, cứu rỗi con và tiếp nhận con làm con cái của Ngài. Con rất cám ơn Chúa. Con cầu nguyện nhơn danh đức Chúa Giê-xu. Amen!”

SƯU TẦM


TIN TỐT LÀNH CHO DÂN TỘC VIỆT NAM

Tin Lành Cho Người Việt Nam

Từ chỗ không chịu khó tìm hiểu đến nơi, nhiều người Việt Nam đã có những hiểu lầm đáng tiếc đối với Đạo Tin Lành, thậm chí nhiều người không biết đến Tin Lành là gì.


Tin Lành Là Gì?

 TIN TỐT LÀNH

Con biết con đã phạm tội trong ý nghĩ, lời nói cùng hành động hằng ngày của con. Có nhiều việc thiện con chưa làm. Nhưng con đã làm nhiều điều tội lỗi. Con hối cải về những tội lỗi của con và xoay bỏ mọi điều con biết là sai quấy. Con biết Ngài đã bỏ mạng sống Ngài trên thập tự giá vì cớ con. Con xin dâng lại đời sống con cho Ngài với lòng biết ơn.

Ban đầu Thượng Đế tạo nên thế gian chúng ta - Núi non, sông biển, cỏ cây, hoa lá và các vật có sự sống đều do Ngài dựng nên cả.


  
Nhưng điều quí nhất là Ngài tạo một con người hoàn toàn tốt đẹp và không có tội lỗi. Ngài yêu mến người và muốn người là bạn của Ngài để thông công vui vẻ với Ngài và coi sóc mọi công cuộc sáng tạo của Ngài trên trái đất.

  Thượng Đế không tạo nên con người như một người máy, hoặc một cái máy. Ngài ban cho con người một quà tặng quí giá tức là ý chí tự do để chọn điều phải hoặc quấy, tốt hoặc xấu. Ngài không muon ép người ta phải theo Ngài. Ngài muốn loài người tự nguyện yêu Ngài.

  

Nhưng người ta đã lựa chọn con đường bất tuân Thượng Đế; người đã lựa chọn sai.    

Người thích làm vừa lòng chính mình hơn làm vừa lòng Thượng Đế.

NGƯỜI ĐÃ PHẠM TỘI.- Và như thế, tội đã bước vào thế gian Sự chết đã đi chung với tội. Thượng Đế đã phán trong Kinh Thánh (là Lời Ngài) cho chúng ta rằng: "Tiền công của tội lỗi là sự chết." (Rôma 6:23).

Tất cả sự đau đớn và gian ác có trong thế gian hôm nay là do tội lỗi mà ra.

   

Tội lỗi giống như đám mây đen che khuất mặt trời. Đó là lý do khiến Thượng Đế có vẻ xa cách loài người vạn dặm. Ngài trong sạch và thánh khiết. Ngài ghét tội lỗi. Ngài không muốn và không thể nhìn tội lỗi. Tội lỗi làm bế tắc đường đi tới Ngài.

  
TỘI LỖI LÀ GÌ?

   

Tội không phải chỉ là giết người, trộm cắp, lường gạt, làm bậy.
  

Tôi phạm tội khi tôi sống cho chính mình thay vì cho Thượng Đế, là Đấng Tạo-hóa của tôi. Tôi phạm tội khi tôi bảo: "Tôi là chủ chính mình, nay là cuộc đời của tôi, tôi phải được tự do sử dụng nó tùy ý tôi thích."
  
Lời của Thượng Đế có phán trong Êsai 53:6 rằng: "Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy,"

   
  
Tôi phạm tội khi tôi từ chối đặt niềm tin nơi Jêsus Christ, Con Thượng Đế.
  
Thượng Đế phán với chúng ta rằng: "Ai tin đến Con Đức Chúa Trời, thì có chứng ấy trong mình; còn ai không tin Đức Chúa Trời, thì cho Ngài là nói dối, vì chẳng tin đến chứng Đức Chúa Trời đã làm về Con Ngài. Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài." (I Giăng 5:10-11).
  
Tôi phạm tội khi tôi không làm điều đáng phải làm.
  
Kinh Thánh có chép rằng:"Cho nên, kẻ biết làm điều lành mà chẳng làm, thì phạm tội." (Giacơ 4:17). Tôi phạm tội khi tôi không lưu tâm đến kẻ khác như chính mình, chẳng làm gì cả hoặc làm rất ít để giúp kẻ cô đơn, bất hạnh.

   
  
Tôi phạm tội khi tôi bất tuân Thượng Đế, khi tôi không yêu Ngài hết lòng.
  
Trong Mathiơ 22:37-38 (Kinh Thánh) chúng ta đọc: "Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi. Ấy là điều răn thứ nhứt và lớn hơn hết."

   
  
Bạn có thể cho rằng mình không tệ lắm, vẫn còn khá hơn nhiều người khác. Nhưng đó vẫn không phải là vấn đề, vì chẳng ai trong chúng ta tiến lại gần tiêu chuẩn hoàn toàn của Thượng Đế. Chỉ có Chúa Jêsus là Con Thượng Đế là trọn vẹn. Có lẽ chúng ta chưa làm điều gì đặc biệt gian ác. Nhưng chúng ta là tội nhơn chỉ vì chúng ta chưa tốt đủ.
  
Ví dụ: Chẳng hạn điểm thi đậu là 50. Nếu có người chỉ được 5 điểm; người ấy đã hỏng thi, nếu bạn được 49 điểm, bạn cũng hỏng. Bạn chẳng can biện hộ:"Tôi còn khá hơn người được 5 điểm quá nhiều." Cả hai điều hỏng thi. Kinh Thánh có chép:"Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hien của Đức Chúa Trời." (Rôma 3:23).
  
Tội lỗi là căn bệnh tất cả chúng ta đều mắc phải.
   
  
Tội lỗi giống như một đốm đen xấu xí trên một trang giấy sạch sẽ.
  
Ích kỷ, lười biếng, lơ lững, nói dối, nói những chuyện bẩn thỉu, tất cả những điều đó làm hỏng tâm tính bạn. Tội lỗi phá hủy hạnh phúc gia đình hoặc tình bạn của chúng ta.

    
  
Tội lỗi giống như cỏ dại trong vườn, nếu không nhổ tận gốc, nó sẽ mọc lan cả vườn. Những hành động bất lương, bất phục tùng lặt vặt sẽ trở thành những thói quen chúng ta không thể bỏ được.
    

Tội lỗi ngăn cách bạn với Thượng Đế trong đời này và đời sau. Hãy nhớ rõ: Hỏa ngục là một thực tại khủng khiếp ghê rợn đối với mọi kẻ từ chối Jêsus Christ trong cuộc đời này.
  
Bây giờ bạn phải làm sao?
  
Bạn không thể đẩy bức tường đi chỗ khác.
  
Bạn không thể tự cứu được.
  
Cố gắng giúp kẻ khác và làm việc thiện cũng không thể cất bỏ được chướng ngại vật đó. Nếu tội lỗi ngăn cách chúng ta với Thượng Đế, há chúng ta không còn hy vọng nào sao? Thượng Đế há gat bỏ chúng ta hẳn rồi sao? KHÔNG!
  
ĐÂY LÀ TIN LÀNH

  
"Nầy ta báo cho các ngươi một TIN LÀNH, sẽ là một sự vui mừng lớn cho muôn dân. Ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu Thế, là Christ, là Chúa.”
  
Thượng Đế vẫn còn yêu thương loài người .
  
Kinh Thánh dạy chúng ta rằng:"Lòng Đức Chúa Trời yêu chúng ta đã bày tỏ ra trong điều này: “Đức Chúa Trời đã sai Con một Ngài đến thế gian, đặng chúng ta nhờ con được sống".........             (I Giăng 4:9).

    
   Thượng Đế đã sai chính Con Ngài giáng sinh như một em bé, Jêsus Christ, Con Thượng Đế, đã lớn lên trong thế gian này. Ngài tỏ cho loài người cách hiểu biết và yêu thương Thượng Đế, Jêsus Christ sống một đời sống trọn vẹn vô tội.
   Vì chúng ta, Jêsus Christ đến để phá bỏ bức màn của tội lỗi và sự chết.
    
   Thượng Đế đã chứng tỏ tình yêu Ngài đối với chúng ta, vì Kinh Thánh có chép: "Khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết."
     Lúc Jêsus còn thanh xuân, Ngài nhận tội lỗi chúng ta và cho phép người ta giết Ngài.
     Nhưng làm sao cái chết của Jêsus Christ có thể chứng minh tình yêu của Thượng Đế đến với chúng ta được? Cái chết đó đã hủy phá bức tường tội lỗi giữa chúng ta với Thượng Đế bằng cách nào?
    
  Bản tánh Thượng Đế giống như đồng tiền hai mặt: công bình và yêu thương. Sự công bình của Ngài kết án con người, vì tội lỗi phải bị hình phạt. Tình yêu của Ngài khiến Ngài khao khát con người trở lại làm bạn với Ngài.
   Trên thập tự giá, sự Công bình và Yêu thương của Ngài đã được hoàn toàn thỏa mãn, tội lỗi phải bị phạt, cho nên Thượng Đế trong tình yêu, đã sai con Ngài là Jêsus Christ đến chết thế chúng ta, để đền tội chúng ta mà đáng lý ra chúng ta phải gánh chịu.
   
    
   Đó là lý do, trên thập tự giá, Ngài đã kêu:"Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! Sao Ngài lìa bỏ tôi”. Chúa Jêsus đã mang trọn án phạt thế chúng ta.
     Chúa Jêsus đã đau khổ vì bị xa cách Cha Ngài, bởi cớ chúng ta.
   Tuy nhiên, trước khi chết, Ngài đã phán:"Mọi việc đã được trọn”. Nay không phải là tiếng kêu bại trận, nhưng là tiếng kêu đắc thắng:"Ta đã làm xong! Nợ tội của con người ta đã trả xong."
     Ngài đã làm xong công tác cứu bạn khỏi hỏa ngục là sự huỷ diệt đời đời. Con đường trở về Thượng Đế đã mở. Hàng rào tội lỗi đã bị triệt hạ.
   Chúng ta thấy
  
PHẦN CỦA THƯỢNG ĐẾ.

     Ngài đã yêu chúng ta đến nỗi đã sai Con Ngài chết thế chúng ta.
     "Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời." (Giăng 3:16).
  
PHẦN CỦA CHÚA JÊSUS.

     Ngài gánh lấy hình phạt tội lỗi của chúng ta trên thập tự giá. Sau khi Ngài chết, các môn đồ đem xác Ngài đi chôn trong mộ. Đến ngày thứ ba, Ngài từ kẻ chết sống lại. Ngài triệt hạ bức màn tội lỗi và sự chết, và hiện nay Ngài ban cho bạn cuộc sống đời đời trên thiên đàng với Ngài.
     Chúng ta đọc trong Kinh Thánh:"Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ, hầu cho chúng ta là kẻ đã chết về tội lỗi, được sống cho sự công bình."
     ĐÓ LÀ TIN LÀNH.
   Bây giờ đến
   PHẦN CỦA BẠN.
     Tiếp nhận Jêsus hay từ chối Ngài.
   Bạn muốn sống mãi mãi trong bất mãn, chỉ nếm biết nỗi trống trải, hay hưởng thụ những lạc thú chóng qua của đời này chăng? Hãy nhớ điều này: Một ngày kia bạn sẽ cảm thấy quá muộn rằng bạn đã bỏ mất những gì đẹp đẽ nhứt trong cuộc đời, đã phạm phí đời bạn và hủy phá linh hồn mình.
   
   Sống không có Christ tức là chết không có Christ.
Chết không có Christ nghĩa là mãi mãi sống không có Ngài, trong hoả ngục.
   Nhưng nếu bạn muốn cuộc đời thật thỏa mãn, có mục đích và ý nghĩa, một cuộc đời xứng đáng và nhứt là một cuộc đời đẹp lòng Đức Chúa Trời, thì đó là điều Đức Chúa Trời đang mong mỏi. Sự tha thứ cùng sự sống đời đời không đến một cách tự nhiên, nhưng phải có phần của bạn.
   1. Cần CHẤP NHẬN.- Rằng, bạn đã phạm tội trước mặt Thượng Đế. Hãy hết lòng buồn bã hối tiết về tội loi của bạn. Hãy ghét tội và bằng lòng bỏ tất cả mọi ý tưởng, lời nói, hành động cùng thói quen bạn biết là sai lầm.

  2. Cần TIN.- Rằng, Jêsus Christ đã chết trên thập tự giá gánh mọi tội lỗi và tội hình của bạn. Dầu bạn là ai và phạm bất cứ việc gì, Thượng Đế đã hứa tha thứ bạn nếu bạn thật lòng tin rằng Jêsus Christ đã chết thế cho bạn.

   3. Cần LÀM.- Tiếp nhận Jêsus Christ làm Chúa đời sống bạn, làm chủ bạn, làm cứu Chúa tẩy sạch tội lỗi bạn, làm người bạn hướng dẫn và cùng sống với bạn.
Trong Kinh Thánh sách Khải Huyền 3:20, Jêsus có phán với chúng ta rằng: "Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy.”
SUU TAM


BẠN CÓ BIẾT?

Chúa Jesus Christ là Ai?


Câu hỏi: Chúa Giê Xu Christ là ai?

Trả lời: Chúa Giê Xu Christ là ai? Không giống như câu hỏi: Đức Chúa Trời có hiện hữu? Rất ít người đặt câu hỏi này cho dù Chúa Giê Xu Christ đã hiện hữu. Tính cách phổ quát chấp nhận Chúa Giê Xu là một con người thật đã đi vào đất nước Y-sơ-ra-ên 2000 năm trước. Cuộc tranh luận bắt đầu khi chủ đề về nhân dạng đầy đủ của Chúa Giê Xu được thảo luận. Hầu hết những tôn giáo chính dạy Chúa Giê Xu là một nhà tiên tri hoặc là một giáo sư tốt hay là nhân vật đáng tôn kính. Vấn đề là Kinh Thánh chứng minh Chúa Giê Xu nhiều hơn là một nhà tiên tri hoặc một giáo sư tốt hay là nhân vật đáng tôn kính.
C. S. Lewis trong tác phẩm “Chỉ là Cơ đốc giáo” của ông đã viết như sau: Tại đây tôi đang cố gắng ngăn chận bất cứ ai khỏi nói những điều thật điên cuồng mà con người thường hay nói về Chúa Giê Xu Christ: “Tôi tin Chúa Giê Xu Christ như là vị giáo sư đạo đức vĩ đại, nhưng tôi không tin Ngài là Đức Chúa Trời.” Đó là điều chúng ta phải nói không. Một người mà chỉ đơn thuần là một người nói vài điều ngắn ngủi như Chúa Giê Xu đã nói thì không phải là một giáo sư đạo đức vĩ đại. Người ấy hoặc là một người điên hoặc là ma quỷ. Bạn phải tự lựa chọn Chúa Giê Xu là con Đức Chúa Trời hoặc là một người điên hoặc là người tồi tệ nhất. Bạn có thể bảo Ngài đừng nói những lời điên khùng, bạn có thể khạc nhổ vào Ngài, và giết Ngài như một quỷ vương hoặc bạn quỳ xuống chân Ngài gọi Ngài là Chúa và Đức Chúa Trời. Nhưng hãy đừng để chúng ta tôn cao Ngài như là một giáo sư con người vĩ đại bằng những lời xằng bậy của kẻ bề trên. Ngài không để lại cho chúng ta sự lựa chọn đó. Ngài không có ý định như vậy.”

Vậy thì Chúa Giê Xu đã tuyên bố Ngài là ai? Kinh Thánh nói Ngài là ai? Trước tiên hãy xem những lời Chúa Giê Xu nói trong Giăng 10:30 “ Ta với Cha là một”. Đầu tiên nhìn lướt qua, lời tuyên bố này dường như Chúa Giê Xu không phải là Đức Chúa Trời. Tuy nhiên hãy xem phản ứng của người Do Thái về câu nói của Ngài. “Người Giu Đa trả lời rằng: Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá ngươi, nhưng vì lỗi lộng ngôn: Ngươi là người mà tự xưng là Đức Chúa Trời.” (Giăng 10:33) Người Do Thái hiểu lầm về câu nói của Chúa Giê Xu nhưng trong những câu Kinh Thánh tiếp theo Ngài không bao giờ đính chính: “Ta không phải là Đức Chúa Trời.” Điều đó cho thấy Chúa Giê Xu nói Ngài thực là Đức Chúa Trời bởi câu “Ta với Cha là một” (Giăng 10:30) Giăng 8:58 là một thí dụ khác, Chúa Giê Xu đã công bố: “Đức Chúa Giê Xu đáp rằng, quả thật, ta nói cùng các ngươi, trước khi có Áp-ra-ham đã có Ta.” Một lần nữa người Do Thái phản ứng bằng cách nhặt đá lên toan ném vào Chúa Giê Xu (Giăng 8:59) Chúa Giê Xu đã thông báo về lai lịch của Ngài khi nói: “TA LÀ” áp dụng trực tiếp vào danh xưng của Đức Chúa Trời trong Cựu Ước (Xuất Ê-Díp-Tô ký 3:14) Tại sao một lần nữa người Do Thái muốn ném đá Chúa Giê Xu nếu Ngài không nói điều gì mà họ coi như là sự nhạo báng, danh xưng Ngài công bố là Đức Chúa Trời?

 Giăng 1: 1 nói “Ngôi lời là Đức Chúa Trời” Giăng 1: 14 nói “Ngôi lời đã trở nên xác thịt” điều này rõ ràng cho thấy Chúa Giê Xu là Đức Chúa Trời trong xác thịt. Thô Ma một môn đồ nói với Chúa: “Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi.” (Giăng 20:28) Chúa Giê Xu không sửa lại lời ông nói. Sứ đồ Phao Lô đã diễn tả về Ngài như sau: “…Đức Chúa Trời cao cả của chúng tôi và Cứu Chúa Giê Xu Christ (Tít 2:13) Sứ đồ Phi-e-rơ cũng nói như thế: “Đức Chúa Trời của chúng tôi và Cứu Chúa Giê Xu Christ.” (II Phi-e-rơ 1:1) Đức Chúa Trời đã làm chứng đầy đủ về lai lịch của Chúa Giê Xu như sau: Về Con, Ngài nói “ Ô! Đức Chúa Trời, vương quốc Ngài còn mãi và sự công bình của Ngài ngự trị trong vương quốc”. Những lời tiên tri trong Cựu Ước công bố về thần tánh Ngài như sau: “Vì sẽ có một con trẻ sinh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta, quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài, Ngài sẽ được xưng là Đấng mưu luận, là Đức Chúa Trời quyền năng, Cha đời đời, Chúa bình an.”

Vì thế, C. S .Lewis đã tranh luận, tin Chúa Giê Xu là một giáo sư tốt đó không phải là sự lựa chọn. Chúa Giê Xu được xưng là Đức Chúa Trời rõ ràng không thể chối cãi. Nếu Ngài không phải là Đức Chúa Trời thì Ngài là kẻ nói dối do đó không phải là tiên tri, giáo sư tốt, hay người tin kính tốt. Thử giải thích xa hơn những lời của Chúa Giê Xu, những học giả hiện đại công bố “ Giê Xu là nhân vật lịch sử thật” đã không nói nhiều điều mà Kinh Thánh làm chứng về Ngài. Chúng ta là ai mà tranh luận với lời Đức Chúa Trời liên quan đến những gì Chúa Giê Xu đã làm hoặc làm mà không nói. Làm thế nào có thể một “học giả” hai ngàn năm đã rút ra từ Chúa Giê Xu một cái nhìn thấu suốt bên trong những gì Ngài làm hoặc làm mà không nói hơn là những người đã sống với Ngài, hầu việc Ngài, và được dạy dỗ bởi chính Chúa Giê Xu. (Giăng 14:26)?

Tại sao việc hỏi về con người thật của Chúa Giê Xu lại rất quan trọng? Tại sao lại trở thành vấn đề cho dù Ngài có phải là Đức Chúa Trời hay không? Lý do quan trọng nhất mà Chúa Giê Xu là Đức Chúa Trời vì nếu Ngài không phải là Đức Chúa Trời, sự chết của Ngài không có linh nghiệm để trả thay tội lỗi của toàn thể loài người. (I Giăng 2:2) Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể đền tội thay cho món nợ tội lỗi không thể đếm được (Rô-ma 5:8; II Cô-rinh-tô 5:21). Chúa Giê Xu phải là Đức Chúa Trời để mà Ngài có thể trả thay món nợ của chúng ta. Chúa Giê Xu phải là người để Ngài có thể chết. Sự cứu rỗi chỉ có thể thực hiện được qua đức tin vào Chúa Giê Xu Christ. Thần tánh của Chúa Giê Xu để giải thích tại sao Ngài là con đường cứu rỗi duy nhất. Thần tánh của Chúa Giê Xu để giải thích lời tuyên bố của Ngài: “Ta là đường đi, chân lý và sự sống, chẳng bởi Ta không một ai được đến cùng Cha.” (Giăng 14:6).

Sưu tầm


TÌNH YÊU (4)


GIẢI MÃ TÌNH YÊU 

GIẢI PHÓNG TÌNH YÊU KHỎI NHỮNG NGỘ NHẬN THƯỜNG XUYÊN

“Tình yêu là một mãnh của vô biên rơi xuống mặt đất”
“Càng khám phá tình yêu, bạn sẽ hụt hẫng nhận ra rằng mình chưa bao giờ yêu và được yêu thực sự”.
1. Yêu là gì?
Cách đây không lâu, có một anh chàng bị mắc phải một chứng bệnh quái ác, làm cho anh ta mất đi đôi chân, rồi đôi tay, rồi cả đôi mắt, vào độ tuổi sung sức nhất, và anh chỉ còn một tuần để sống. Một hôm chợt nghe thấy cô vợ trẻ của mình thút thít khóc bên cạnh. Anh liền hỏi: “Sao em khóc vậy? Đúng là anh không còn đôi chân để dạo chơi với em vào dịp cuối tuần, không còn đôi tay để ôm ấp em, và cũng chẳng còn đôi mắt để nhìn ngắm em… Nhưng anh vẫn còn có một trái tim để yêu em”. Một quả tim để yêu! Phải chăng đó là quà tặng quý giá nhất mà Thượng Đế đã ban tặng cho con người?

Các bạn thường nghe nói đến tình yêu như một điều gì đó không thể định nghĩa, là một cái gì thật mơ hồ, vô cớ như Xuân Diệu tâm sự:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhẹ nhẹ, gió hiu hiu...”.
… Phải chăng chính vì cái khái niệm mơ hồ đó làm cho tình yêu trở nên hấp dẫn, và là nguồn cảm hứng cho không biết bao tác phẩm thơ văn, nhạc kịch, điện ảnh? Đồng thời tình yêu cũng trở thành một đề tài mà ai cũng có thể bàn cãi và đưa ra ý kiến của riêng mình, để rồi từ đó có thể hiểu tình yêu như thế nào cũng được chăng? Phải chăng đó là lý do để ngày nay người ta, đặc biệt giới trẻ, có thể yêu cuồng sống vội, sống thử theo ý thích và ngông tưởng của mình hay không?
Thật ra có rất nhiều định nghĩa về tình yêu. Vì người ta không hẳn có cùng một cái nhìn về cùng một thực tại và cùng một quan điểm về tình yêu. Nhưng có phải vì thế mà tình yêu có thể là thế này hay thế kia không?
Các bạn đã từng xem sách danh ngôn về tình yêu chứ? Các bạn có nhận ra rằng từ tình yêu được đề cập đến trong những danh ngôn khác nhau đến dường nào, thậm chí đối nghịch?
Người ta thường lầm lẫn tình yêu với những gì được thể hiện ra bên ngoài và được gọi là tình yêu.
Thật ra tình yêu vẫn chỉ là tình yêu. Và chỉ là như thế mà thôi!
Cái nhìn của ta về một thực tại cụ thể còn hạn chế (chuyện năm ông đi xem voi) huống gì là một thực tại trừu tượng như tình yêu.
Tình yêu không thể chứng minh nhưng lại có thể cảm nhận”. (Pascal)
Người ta thường lầm lẫn giữa tình yêu và những biểu hiện của nó.
Tình yêu không thể không diễn tả qua những biểu hiện. Nhưng những biểu hiện của tình yêu lại không nhất thiết là tình yêu. 
Giả dụ bây giờ tôi hỏi các bạn hiện thời các bạn có đang yêu và đang được yêu không? Có lẽ các bạn sẽ không ngần ngại đáp: Có chứ! Và nếu tôi hỏi tiếp: Các bạn hãy chứng minh cho tôi điều đó. Có lẽ các bạn sẽ nêu ra một loạt những biểu hiện… Nhưng nếu tôi hỏi: Làm sao bạn biết những biểu hiện đó nói lên bạn đang yêu và được yêu? Có lẽ ít nhiều các bạn sẽ khựng lại.
Chính vì thế mới có sự lầm lẫn về tình yêu. Ví dụ một cái hôn có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Cái hôn có thể là biểu hiện của tình bạn, sự thông cảm chia sẻ, sự đam mê thích thú, tình yêu trao ban, sự thân mật, dấu chỉ của sự thuộc về nhau, nhưng cũng có thể là một sự chỉ điểm như cái hôn của Giuđa chẳng hạn. Cũng như quà tặng, nó có thể là dấu hiệu của tình yêu, của sự trao ban, lòng biết ơn, nhưng cũng có thể là một sự thưởng thức cảm giác, việc lấy lòng hay tệ hơn nữa là sự hối lộ, dụ dỗ...
Tôi chỉ e rằng một khi thành thật mổ xẻ cái gọi là tình yêu của mình dành cho ai đó, hay của một ai đó dành cho mình, chưa chắc ai trong chúng ta đang hiện diện tại đây, có thể khẳng định rằng mình đã thực sự yêu và được yêu thực sự, cho dù quý vị có thể nói với tôi rằng quý vị đã từng kinh qua bao nhiêu mối tình, đã từng chinh phục không biết bao nhiêu cô gái hay chàng trai, đã từng nếm được hương vị ngọt ngào của tình yêu, và thậm chí đang sống hạnh phúc trong tình yêu…
Riêng bản thân, càng đi sâu giải mã tình yêu, tôi càng chua xót nhận ra một sự thật phũ phàng là hình như người ta chưa bao giờ trao ban và đón nhận tình yêu thực sự. Có một điều gì đó giống như thể là tình yêu, nhưng lại hoàn toàn không phải là tình yêu.
Cho dù quan niệm về tình yêu có khác nhau đi chăng nữa, người ta cũng phải nhìn nhận tình yêu trái nghĩa với ích kỷ, với lợi dụng.
Nếu như ích kỷ và lợi dụng đều quy hướng mọi sự về bản thân (egoism) thì tình yêu lại hướng đến tha nhân (altruism).
Nhưng để kiểm nghiệm điều đó thì hoàn toàn không dễ chút nào, vì ta không thể chỉ dựa vào biểu hiện của nó. Vì cho đi vẫn có thể là biểu hiện của vị kỷ nếu có hậu ý vụ lợi. Và ngược lại, đón nhận cũng có thể là biểu hiện tình yêu nếu như điều đó nhằm mang lại sự hài lòng cho người mình yêu, nói lên sự quí trọng điều mà người mình yêu muốn trao tặng mình.
2. Giải mã “I love you”
Có lẽ câu nói này các bạn thường xuyên nghe thấy trên phim ảnh. Một lời tỏ tình mà những người đang yêu thích được nghe, và thường nói với nhau đặc biệt khi chưa lấy nhau và nhất là trước khi lấy nhau. Tại sao người ta dễ nói “I love you” đến thế? Bạn đã từng nói điều đó với ai chưa? Nếu đã từng nói ít ra là một lần, bạn hãy thử nhớ lại xem, bạn nói với ai, ở đâu, vào lúc nào, trong tình trạng nào và do đâu? Hãy thật với lòng mình, khi bạn nói “I love you”, bạn có đang ý thức về chủ từ (I) (Anh/em) và túc từ you/em/anh là ai, là gì hay không? Bạn có đang ý thức về khái niệm của động từ/love không, hay lúc nói điều đó, bạn đang ở trong tình trạng lâng lâng, say nồng cảm giác, mắt nhắm mắt mở, hay cả hai đều nhắm, ý thức đóng kín, lý trí đi vắng, chỉ có cảm giác tràn ngập mà thôi? Tôi có thể dám gần như chắc chắn quả quyết với bạn là những ai đã từng nói điều đó ít ra trong thời gian đang “yêu” hầu như không ý thức gì về điều mình đang nói, hoặc về động từ, hoặc về chủ từ, hoặc về túc từ, hoặc về cả ba.
Đó chỉ là cái cảm giác yêu trong một phút chốc hứng khởi, lâng lâng, mộng tưởng, chứ không phải là tình yêu trong thực tế của đời sống. Đúng ra đó là một cách nói mơ hồ nếu không muốn nói là hàm hồ. Những người suy nghĩ chín chắn ít dám nói điều đó, dù nói điều đó lại là một cái lợi, đặc biệt đối với phái nam, vì phái nữ thường rất nhạy cảm với lời tỏ tình, nhất là khi họ có ít nhiều tình cảm với người đó. Rất nhiều tay sở khanh biết tận dụng câu nói đó để dụ dỗ phái nữ.
Lẽ ra câu nói “I love You” phải được phát biểu như sau: Tôi yêu cảm giác mà anh/em mang lại cho tôi, cái cảm giác yêu và được yêu. Hay tôi mê điều mà tôi cảm thấy ngay lúc này đang diễn ra trong thân xác tôi, trong con người của tôi mà anh/em mang đến cho tôi. Hay rất mê, rất thích cái này, cái nọ nơi nơi anh/em vì nó mang lại cho tôi một khoái cảm nào đó về thể xác hay về tinh thần. Nhưng có đời nào ai lại nói như thế cho dù có nhận thức được như thế. Coi chừng việc tránh né mang lại cho tình yêu một định nghĩa nào đó, bằng cách cho rằng tình yêu là một cái gì đó  không thể định nghĩa, chỉ là cái cớ để xề xoà với tiếng lương tâm của mình nhằm trấn an lương tâm, lừa bịp lương tâm mình nhằm dụ dỗ, lừa bịp ai đó. 
Giải mã câu nói “I love you” là một việc làm không thể thiếu đối với những ai muốn yêu và được yêu thật sự. Vì rất có khả năng quan niệm của hai người không giống nhau và đôi khi còn trái ngược. Vì từ “love” (yêu) mà người ấy nói với bạn trong suy nghĩ của họ không hẳn đồng nghĩa mà đôi khi còn trái ngược với từ yêu mà bạn nghĩ. Mẩu đối thoại nhỏ sau đây giữa hai người tạm gọi là yêu nhau sẽ cho các ban thấy rõ điều này:
Anh: Nếu em yêu anh, em hãy để anh yêu em.
Chị: Nếu anh “yêu” em, thì đừng “yêu” em nữa!
Trong cùng một câu, nhưng từ “yêu” trong câu trước lại hoàn toàn đối lập đối với từ “yêu” trong câu sau.
Chính vì thế, sự khôn ngoan đòi hỏi trước khi đi đến quyết định cuối cùng phải thật sự hỏi mình và hỏi nhau yêu là gì, và chúng ta có yêu nhau đích thật không? Và cần phải có đủ thời gian và sáng suốt để kiểm chứng điều đó qua cách thức xử sự với nhau trong quan hệ giữa hai người, vì thông thường người con gái dễ bị choáng ngợp trước lời tỏ tình này của người con trai. Sẽ thật nguy hiểm nếu người con gái thuộc típ luỵ tình cảm và phải lòng chàng trai, trong khi chàng trai lại là một gã hào hoa chuyên tán gái. Con trai thì gần như hiếm khi cần người yêu của mình nói với mình điều đó mà đúng hơn cần thấy người yêu của mình chấp nhận tình yêu của mình (bật đèn xanh) trừ khi có sự hồ nghi, không rõ ràng.
3. Thế nào là tình yêu đích thực?
Một câu hỏi vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người, đặc biệt đối với các bạn, những người hoặc đã từng có ít nhiều trải nghiệm về tình yêu, hoặc đang tập tễnh bước vào tình yêu, hoặc đang yêu và có thể dự định tiến xa hơn, bước vào đời sống hôn nhân mà mỗi người phải tự đặt ra cho mình và cho người mà định chọn làm bạn đời.
Ta thường nghe nói “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở, tình hết đẹp khi vẹn câu thề”. Phải chăng tình yêu đích thực là một chuyện tình dở dang?
Hầu hết thơ văn lãng mạn trữ tình đều lấy cái tình dang dở làm nguồn cảm hứng. Nhưng thật ra cái tình yêu dang dở đó là cái gì?
Nếu bình tâm, ta sẽ nhận ra cái tình dở dang nói đến ở đây không phải là tình yêu đích thực mà chỉ là thứ tình tính tang, tình lãng mạn, gắn liền với cảm xúc, có tính cách nhất thời, mộng tưởng.
Tôi chỉ yêu cái con người của em/anh lúc này đây, lúc mà tôi cảm thấy nó như thế, hay tôi yêu cái hình ảnh mà tôi tự nghĩ ra, mơ ước về em/anh, chứ không nhất thiết là con người của em/anh như chính em/anh là.
Cái đẹp ở đây là cái đẹp của khoái cảm, do hai người chưa hiện nguyên hình mà còn lung linh huyền ảo như được che khuất bởi một tấm màn. Cái đẹp ở đây được tạo nên bởi bóng tối của màn đêm, không hẳn do trời tối hay do bóng tối mà do con mắt lý trí của mình đóng kín hay mù quáng. Bởi thế người ta mới bảo khi đèn tắt thì mọi phụ nữ đều là hoa hậu, hay ít ra cho dù xấu xí cũng nên đẹp phần nào. Như thế ta hiểu nó đẹp là vì con mắt lý trí của ta nhắm nghiền.
Và khi nói thế, người ta muốn nói rằng hôn nhân là mồ chôn của tình yêu.
Thật ra không phải hôn nhân đào mồ chôn tình yêu, mà là người ta chưa bao giờ thực sự yêu đúng nghĩa trọn vẹn trước hôn nhân. Và chính hôn nhân sẽ đào mồ chôn một tình yêu non kém, thiếu tháng, ảo tưởng để sản sinh một tình yêu đích thực nếu có. Hôn nhân là thước đo tình yêu, là lửa thử vàng-là tình yêu. Chính hôn nhân sẽ xác định cho ta thấy tình yêu trước đó là vàng thật hay vàng giả. Vì chỉ khi thực sự sống chung với nhau trong đời sống hôn nhân, lúc ấy xung đột mới xảy ra, và việc tiếp tục sống với nhau dù có những xung đột mới là biểu hiện của tình yêu đích thực. Như thế phải nói rằng xung đột không phải là biểu hiện của việc không có tình yêu, mà đúng hơn là để thử tình yêu, là cơ hội để tình yêu đích thực được biểu lộ.
Hơn nữa, khi lập gia đình, dần dà hai người sẽ không còn hút nhau như trước vì chẳng còn tấm màn che nào giữa hai người tạo nên sự hấp dẫn, không còn sự đeo đuổi săn đón như trước nữa, và cũng chẳng còn phải nén mình che giấu những khiếm khuyết, cũng chẳng còn háo hức mong chờ gặp gỡ. Cả hai giờ đây hiện nguyên hình với những điều hay điều dở, nhưng thường là điều dở mà trước đây người ta che giấu và nguỵ trang. Sự hấp dẫn trước đây là do ít nhiều còn che đậy, còn bí hiểm để khám phá. Còn giờ đây mọi sự đã được phơi bày một cách trần trụi, hoặc do những cơn đói chưa được thoả mãn hoàn toàn. Sự no thoả thường đưa đến cảm giác chán chường.
Thật vậy, chỉ trong đời sống hôn nhân tình yêu mới được kiểm chứng thực sự, vì trong sự chung sống thực sự người ta mới có cơ hội và điều kiện thể hiện toàn vẹn con người của mình. Khi ta biết rõ về con người sống chung với mình là như thế đó mà ta vẫn tiếp tục yêu thì đó mới là tình yêu đích thực.
Vì thế mọi mơ tưởng về các mối tình trong quá khứ thật ra chỉ là một thứ tình yêu ảo tưởng, chứ không phải là tình yêu đích thực. Vì đó là ta yêu cái hình ảnh mà ta tự tạo nên nơi người ấy, chứ không phải yêu bản thân con người ấy. Hay ta yêu cái ảo giác về con người ấy, yêu cái cảm giác thích thú mà người ấy mang lại cho mình trong một thời điểm nào đó.
Tình yêu đích thực là yêu bản thân con người ấy với những gì bạn đã biết về quá khứ, hiện tại và ngay cả với những gì bạn chưa biết thuộc về tương lai, nghĩa là chấp nhận người ấy như chính họ là trong bản thể của họ chứ không phải theo bạn tưởng tượng, nhận thấy hay suy đoán.
Tình yêu đích thực không được diễn tả bằng: “Tôi yêu bạn vì...” (tình yêu vụ lợi) hay “Tôi yêu bạn nếu...” (tình yêu có điều kiện) mà là “Tôi yêu bạn vì chính bạn” hay “Tôi yêu bạn dù...” (tình yêu vô điều kiện, tình yêu vị tha, tình yêu hiến dâng).
Không có tình yêu nào lớn hơn trao ban chính mạng sống mình vì người mình yêu (Đức Giêsu theo Phúc Âm của Thánh Gioan).
Nhưng ta phải hiểu ở đây, trao ban mạng sống mình vì người mình yêu, vì họ dễ thương, vì họ đáng yêu, vì họ cuốn hút ta, hay vì lòng mình đang cao hứng yêu vì cũng có khối chàng đang yêu có thể liều mình cứu người mình yêu. Trao ban mạng sống cho người mình yêu, khi họ chẳng còn đáng yêu, mà thậm chí đáng ghét, khi họ chẳng mang lại cho mình một cảm giác dễ chịu thích thú nào mà chỉ là buồn giận, khi họ xử tệ với mình, thậm chí hắt hủi, phản bội mình…
Tình yêu đích thực không có thể biến đổi hay biến mất, bởi vì tình yêu đích thực được xây dựng trên sự vị tha, chứ không phải dựa trên sự  gắn bó và ham muốn” (Dalai-Lama).
Yêu là cho đi chính mình” (Thérèse de Lisieux).
Việc cảm thấy trách nhiệm càng nhiều cho thấy tình yêu thực sự càng lớn” (Đức Gioan Phaolô II).
Tình yêu đích thực là một chọn lựa có trách nhiệm, là một quyết định chủ động, sáng suốt chứ không phải chỉ là tình trạng phải lòng bị động.
Tình yêu lãng mạn ít nhiều mang màu sắc ích kỷ luôn muốn chiếm lấy, giành lấy, sở hữu, và có thể dẫn đến những hành động mù quáng, trả thù tình, hạ sát tình địch, tự tử và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ, làm tiêu hao năng lực thể xác và tinh thần, làm cho chủ thể luôn ở trong tình trạng lệ thuộc. Trong khi tình yêu dâng hiến là sự trao ban, là nhắm đến hạnh phúc của người mình yêu, giúp cho người ấy được lớn lên, luôn tôn trọng chọn lựa của người ấy, ngay cả chọn lựa chia tay với mình.Tình yêu đích thực là tình yêu mà trong đó cả hai người cùng nhìn về một hướng (St-Exupery), cùng chia sẻ một lý tưởng sống cao đẹp làm nên ý nghĩa của cuộc đời mình, và giúp nhau đạt đến cùng đích của đời sống. Trong khi tình yêu lãng mạn là tình yêu khép kín, mà trong đó hai người chỉ nhìn nhau, tìm kiếm sự thỏa thích nơi nhau, chiếm hữu hay hưởng thụ lẫn nhau cho đến khi hụt hẫng nhận ra bản thân mình và đối tượng không phải là thần thánh, mà chỉ là những hữu thế tương đối, đầy giới hạn không thể thoả mãn khao khát tuyệt đối của nhau.
Tình yêu đích thực mang đến cho người mình yêu sự tự do, làm cho người ấy được lớn lên và chắp cánh bay cao trong khi tình yêu vị kỷ giam cầm người mình yêu, biến người ấy thành kẻ nô lệ.
Tình yêu đích thực thể hiện qua việc cho đi mà không nghĩ đến việc nhận lại, trao ban chính mình một cách không tính toán. Trong khi tình yêu vị kỷ lúc nào cũng chỉ nghĩ đến bản thân mình, có cho đi cũng chỉ là để được nhận lại, và có khi để nhận lại nhiều hơn.
Tình yêu đích thực thể hiện qua việc đón nhận, chấp nhận người mình yêu như chính họ là, với sự tôn trọng, khoan dung tha thứ, cảm thông sâu xa. Trong khi tình yêu vị kỷ lại muốn biến người mình yêu chiều theo ý muốn và sở thích của mình, áp đặt trên người ấy ý muốn độc đoán ích kỷ của mình.
Tình yêu đích thực luôn hiện hữu nhưng tiếc rằng nó không phải là điều bạn thường nghe, thường thấy trong cuộc sống hằng ngày hay trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng là điều rất âm thầm lặng lẽ, thậm chí bị quên lãng, vùi giập.
Tình yêu đích thực không tự nhiên và hấp dẫn như một món ăn khoái khẩu. Nó không hẳn đồng nghĩa với sự thích thú đam mê. Nghĩa là đối tượng mà bạn yêu không hẳn hợp với sở thích, ý muốn của bạn, không hẳn mang lại khoái cảm, hay làm cho bạn vui lòng.
Những gì mà bạn và tôi thường nghe nói đến, được nuôi dưỡng một cách vô thức thường xuất phát từ thi ca, tiểu thuyết, phim ảnh cổ xuý cho một tình yêu lãng mạn, nặng cảm giác và xác thịt.
Tình yêu đích thực vẫn mang tính lãng mạn, cảm giác và xác thịt nhưng không phải chỉ là thế mà đúng hơn là sự trao ban, chấp nhận, không thể tách rời với trách nhiệm, với sự quên mình, hy sinh. Tình yêu này sâu sắc hơn, thực hơn và mãnh liệt hơn nhiều.
Nếu như sự mãnh liệt của tình yêu lãng mạn phát xuất từ sự cuốn hút đam mê của hai con người được tạo nên nhờ những khoái cảm, mà hai người tạo ra cho nhau đến độ cảm thấy như không thể thiếu nhau như ta vẫn thường nghe nói “anh/em không thể sống thiếu em/anh” (người ta yêu nhau vì người ta cần nhau, vì lệ thuộc, vì nô lệ), thì sự mãnh liệt của tình yêu dâng hiến nằm ở sự bỏ mình, sẵn sàng hy sinh, thậm chí ngay cả mạng sống mình cho người khác. “Không phải vì cần nhau, không thể thiếu nhau mà người ta yêu nhau nhưng chính vì yêu nhau mà người ta cần nhau”.
Trong tình yêu lãng mạn người ta vẫn có thể chết vì người mình yêu như trường hợp mối tình Romeo Juliette, nhưng người ta chết vì mất người yêu, vì không thể sống thiếu người yêu, hay thất vọng vì bị phụ tình. Trong trường hợp đó, người ta không có chọn lựa, không tự do thực sự nhưng bị đam mê lôi kéo, người ta không thực sự ý thức về điều mình làm. Còn trong tình yêu dâng hiến, người ta chọn lựa một cách hoàn toàn ý thức, chết để cho người mình yêu được sống.
Tóm lại tình yêu đích thực có những nét đặc trưng sau:
- Cùng nhau nhìn về một hướng.
- Đón nhận trách nhiệm về người mình yêu.
- Cho đi chính mình một cách vô điều kiện.
- Chấp nhận người yêu như chính họ là.                                                    
- Cảm thông, tha thứ luôn mãi.
- Phục vụ âm thầm, quên cả bản thân.
- Hy sinh mọi sự, ngay cả mạng sống.
- Mang lại hạnh phúc cho người mình yêu.
- Chắp cánh cho người mình yêu.
Thơ: Tìm một định nghĩa cho tình yêu
Yêu phải chăng là đôi lần gặp gỡ
Rồi một ngày một tháng phải trăn trở?
Không!
Phải đời đời mới đủ để yêu đương,
Để diễn tả ngôn ngữ của tình thương.
Yêu phải chăng là những lúc mặn mà
Rồi chia tay nhau mỗi người mỗi ngả?
Không!
Yêu là bên nhau mãi mãi,
Là cùng nhau đấu tranh cho lẽ phải.
Yêu phải chăng chăng là nhìn nhau thoả thích
Là xôn xao khi con tim kích thích?
Không!
Yêu là cùng nhau hướng về cùng đích,
Là trọn cuộc đời cử hành bí tích.
Yêu phải chăng là tay trong tay ta siết,
Giã từ nhau trong ngẩn ngơ nuối tiếc?

Không!

Yêu là tim với tim ta biết,
Dù thời gian không gian có câm điếc.
Gật đầu thôi cũng đủ để hiểu nhau,
Mỉm cười thôi cũng đủ ấm long nhau.
(Sáng tác năm 1986 - Trương Đình Giai)
4. Đâu là những ngộ nhận thường xuyên về tình yêu?
* Tình yêu phải chăng chỉ là sự phải lòng, một thứ tình cảm lãng mạn, hay quan hệ tình dục thuần tuý?
* Tình yêu phải chăng là chuyện tìm kiếm cảm xúc, hưởng thụ cảm giác, là một nổi đam mê, mê một thứ gì đó nơi người mình yêu?
* Tình yêu phải chăng là sự chiếm hữu, chiếm đoạt, tiêu huỷ lẫn nhau?
* Tình yêu phải chăng chỉ là bản năng tự nhiên, là vốn trời cho, có sẵn để xài hay đúng hơn là một nghệ thuật phải học và trau dồi suốt cả đời?
* Tình yêu phải chăng là sự mù quáng về chính mình và về người yêu của mình hay không?
* Tình yêu phải chăng là một sự trao đổi sòng phẳng và cân xứng?
* Tình yêu có thể giải quyết mọi sự trong đời sống hôn nhân gia đình hay không?
* Tình yêu có thể biến đổi kẻ khác không?
* Tình yêu trong đời sống hôn nhân phải chăng chỉ là tiếp nối của tình yêu trong thời gian tìm hiểu? Tình yêu của các bạn có thực sự tự do hay đang bị điều kiện hoá bởi xã hội, và nô lệ cho bản năng và những đam mê của chính mình?
* Hôn nhân phải chăng là một phép màu của tình yêu và hạnh phúc đón nhận từ người bạn đời của mình?
Thông thường tuổi trẻ do sinh lực tràn đầy nhựa sống sung mãn như bông hoa mới nở nhạy cảm trước sự mơn trớn của ánh sáng, không khí, tình yêu nơi họ có khuynh hướng bộc phát, tự nhiên, cảm tính, rạo rực, nhất là bị ảnh hưởng bởi sách báo, phim ảnh cổ xuý một thứ tình yêu cuồng vội, lãng mạn, nặng tính xác thịt qua những nhân vật được diễn suất một cách hấp dẫn tài tình bởi những diển viên mà họ hâm mộ đến mức đồng hoá. Tình yêu bị giảm thiểu, giản lược, đồng hoá với một thứ tình cảm lãng mạn, và/ hay quan hệ thuần tuý tình dục, xác thịt đến mức độ biến nó thành định nghĩa quy điển của tình yêu, quy chiếu cho mọi cách ứng xử của họ trong những quan hệ tình yêu và từ đó dẫn đến một thứ ngô nhận vô cùng nguy hiểm thậm chí chết người: sống như thế đó mới thức sự là yêu, là  sống thực với tình yêu. Chính vì thế không lấy gì làm lạ, khi có biết bao thanh thiếu niên rơi vào con điều lầm lạc, sa đoạ, ngõ cụt thất vọng vì bị vỡ mộng và thậm chí tìm đến cái chết. Sự ảnh hướng này nguy hiểm ở chỗ là không phải lúc nào nó cũng chấm dứt với tuổi trẻ, nhưng vẫn tiếp tục tác động âm ỉ ngay cả khi họ đạt đến tuổi trưởng thành, lúc họ chọn bạn đời và thậm chí cả sau khi đã lập gia đình.
Một ngộ nhận khác là lẫn lộn giữa sự phải lòng (theo nghĩa đam mê, hấp lực, thụ động) với tình yêu (như một chọn lựa bao hàm tự do và trách nhiệm của chủ thể). Tình yêu bình thường khởi đi từ sự phải lòng nhưng sự phải lòng thôi chưa đủ để được gọi là tình yêu. Và cũng đừng lẫn lộn giữa tình yêu và tình cảm. Tình yêu bao gồm cả tình cảm, nhưng tình cảm không bao hàm tình yêu. “Sự thu hút là cốt lõi của tình yêu và theo một nghĩa nào đó thực sự là tình yêu. Nhưng tình yêu không chỉ là sự thu hút” (JP II). Hoặc “thay vì mong mỏi điều tốt cho người yêu thì lại là mong mỏi người yêu như thể một điều tốt”. Điều này cũng tác động nguy hiểm không kém đến việc chọn bạn đời, và đến đời sống hôn nhân của họ sau này. Khi chọn bạn đời mà chỉ dựa trên sự phải lòng thì nguy cơ đổ vỡ sẽ xảy đến khi họ nhận ra sự phải lòng biến mất mà thay vào đó là sự mất lòng, hụt hẫng vì đối tượng giờ đây hiện rõ nguyên hình, không còn mặt nạ nào cả, không còn sự hấp dẫn lôi cuốn bí ẩn như thuở ban đầu, khi giữa họ còn ít nhiều khoảng cách màn chắn. Các bạn từng nghe, đọc và chứng kiến biết bao cuộc tình sét đánh, say đắm lúc đầu nhưng lại mau chóng kết thúc, chưa nói đến những hệ luỵ sau đó trên trường tình ái của biết nhiêu minh tinh, diễn viên, ca sĩ…
Một ngộ nhận khác là nghĩ rằng tình yêu là hưởng thụ cảm giác, là giảm thiểu tình yêu thành một nổi đam mê, mê một thứ gì đó nơi người mình yêu, tìm kiếm cảm xúc nơi người mình yêu.
Rất thường yêu một ai đó là yêu cái cảm giác mà người ấy mang lại cho mình chứ không phải yêu chính con người đó. Như thế yêu một người nào đó cũng chẳng khác nào yêu thích một đoá hoa, ta nuôi dưỡng nó, chăm sóc cho nó không phải vì chính nó và vì chính mình, để thụ hưởng cảm giác dễ chịu nó mang lại cho ta qua thị giác và khứu giác. Và nó chỉ có giá trị bao lâu nó còn có khả năng mang lại cho ta cảm giác dễ chịu đó mà thôi. Nhưng khi nó trở nên tàn úa, hết sắc, hết hương, chưa nói đến chuyện hôi thối, ta không chút thương tiếc ném nó vào sọt rác. Nghĩa là yêu cái cảm giác khi yêu hay cái cảm giác được yêu. Và khi cái cảm giác ấy biến mất, thì cũng là lúc tình yêu cũng tan biến luôn. Bởi kinh nghiệm cho ta thấy cảm giác không có thực nghĩa là lúc thế này lúc thế khác và không thể kéo dài lâu. Cho nên tình yêu theo cảm giác sẽ chết rất mau, khi cảm giác không còn hay thay đổi.
Cảm xúc là đòn bẩy nhưng cũng là cạm bẫy của tình yêu. Chính cảm xúc là điều làm cho bạn thưởng thức được sự ngọt ngào của tình yêu, thì cũng với cảm xúc bạn sẽ nếm mùi đắng cay của tình yêu. Cảm xúc là kẻ thù nguy hiểm nhất huỷ hoại tình yêu. Kích thích cảm xúc để thoả mãn nó sẽ là cái cớ để làm cho nó lên ngôi. Và từ khi nó lên ngôi, bạn sẽ trở thành nô lệ đáng thương của nó. Nó sẽ cho phép mình có quyền quyết định hạnh phúc và bất hạnh của bạn dựa vào việc có thể đáp ứng được thoả mãn của nó hay không. Và khi không đạt được thoả mãn mà nó yêu cầu, nó sẽ tạo ra nơi bạn một sự hụt hẫng, tương ứng với cái cảm giác thoả mãn mà nó tạo nên cho bạn trước đây. Chạy theo việc tìm kiếm thoả mãn cảm xúc dẫn đến một sự huỷ hoại tâm hồn và thể xác. Vì nó sẽ làm cho bạn rơi vào một tình trạng không bao giờ thực sự được thoả mãn mà cứ rơi vào một chuỗi bức xúc, thoả mãn và hụt hẫng không ngừng.
Một ngộ nhận nữa là nghĩ tình yêu là một sự chiếm hữu, chiếm đoạt, tiêu huỷ lẫn nhau, biến kẻ khác thành nô lệ thay vì là sự hiến dâng cho nhau và tùng phục, phục vụ lẫn nhau, và làm cho nhau được lớn lên và triển nở.
Trong quan hệ yêu đương, thường ai cũng tìm cách chinh phục người khác, theo nghĩa chiếm đoạt, chiếm hữu, giành về cho mình, làm của riêng mình, là cướp khỏi tay kẻ khác. Chính vì thế khi muốn chinh phục đối tượng theo nghĩa đó, người ta dùng đủ thứ chiêu, nam theo kiểu của nam, nữ theo kiểu của nữ. Ví dụ nam xuất chiêu bằng sự galăng, chiều chuộng, nịnh hót, trồng cây si, mua sắm quà cáp đắt giá, trổ tài thi thố… Nữ thì liếc mắt đưa tình, lẳng lơ, ăn mặc trang điểm hấp dẫn, lôi cuốn thơm tho, thân xác mời gọi, thậm chí dễ dàng chiều chuộng những đòi hỏi xác thịt của bạn tình. Và một khi chiếm được rồi, một khi người kia đã là của mình, là sở hữu của mình, mình không cần làm gì để chinh phục nữa mà chỉ biến người ấy thành một tên nô lệ về thể xác, tinh thần hay tình cảm, sử dụng theo ý muốn ích kỷ của bản thân, “xài” cho thoả, cho đã, đến mức huỷ diệt người khác, chứ không nghĩ đến việc hiến dâng cho nhau, tùng phục và phục vụ lẫn nhau. Tình yêu như thế chẳng khác nào bỏ tiền mua một chiếc bánh kem thật ngon để “ngốn” cho đến hết thì thôi. Ngoài ra tình yêu dành được do sự chinh phục sẽ chết, khi người ta không nhận được sự chinh phục nữa.
Một ngộ nhận khác là nghĩ và xử sự với người yêu của mình như thể khách thể chứ không phải là chủ thể. Nghĩa là xem người yêu mình như một vật sỡ hữu mà mình có thể sử dụng, lạm dụng một cách tuỳ tiện, một đối tượng mà mình có thể tác động theo ý mình, sai khiến, biến thành một thứ công cụ, hay tệ hơn một thứ nô lệ phục vụ cho sở thích, ý muốn của mình, trong khi lẽ ra phải coi bạn đời của mình là chủ thể có đầy đủ nhân vị, bình đẳng, đáng được tôn trọng, đối xử ít ra như một đối tác.
Bạn có muốn ai đó đối xử với bạn như thế không sao bạn lại có thể đối xử với người khác như thế. Và chuyện gì sẽ xảy ra khi người yêu, hay bạn đời của bạn nhận ra điều đó?
Một ngộ nhận khác nữa là nghĩ rằng tình yêu là một bản năng tự nhiên, là vốn trời cho, là một cái gì có sẵn để xài chứ không phải là một nghệ thuật phải học và trau dồi suốt đời. Chính vì nghĩ tình yêu là cái gì đó có sẵn để xài, các người ta chỉ biết xài xã láng, xài cho đã, chứ không nghĩ đến chuyện tiết kiệm, đầu tư, vun đắp. Bạn thử nghĩ xem, có kho tàng nào xài hoài mà không hết, không cạn. Và đến lúc xài hết, nó cạn, nó hết, thì cũng là lúc tình yêu đã chết. Nó có thể chết rất nhanh nhưng cũng có thể kéo dài được khá lâu tuỳ theo mức độ các bạn xài một cách tiết kiệm hay xài xả láng, nhưng thường cũng không quá vài năm và rồi cũng tắt ngúm.
Một ngộ nhận nữa là bạn ảo tưởng về chính mình và về người bạn đời của mình. Bạn lầm tưởng về chính mình, về ý thích, ý muốn, mong đợi của mình vì bạn chưa thật sự biết mình, chưa thực sự khám phá đầy đủ về chính mình. Điều nghịch lý là những gì mà hồi đầu mình nghĩ là mình thích vì nó hút mình, nhưng khi đụng chạm với cuộc sống thực tế bạn mới nhận ra đó lại là những điều làm cho mình khó chịu, bực mình… Ngay chính với con người của mình, mà bạn còn lầm tưởng thì huống hồ là ai khác. Bạn lầm tưởng vì bạn nhìn người ấy với một cái nhìn chủ quan, định kiến, thành kiến, lập trình sẵn, đóng khung chứ không phải nhìn người ấy như là chính họ là, vì bạn áp dụng lên mọi cách thể hiện, cử chỉ lời nói, hành động của người ấy với cái hệ thống quan niệm, phán đoán, đánh giá của mình, theo kiểu suy bụng ta ra bụng người. Mọi lời nói, cử chỉ, hành động của người ấy được diễn giải theo cách nhìn, hệ thống của mình, mà không nhất thiết tương đồng với cách nhìn và hệ thống của người ấy. Đó chính là một trong những ngộ nhận gây ra hiểu lầm, bất hoà trong đời sống lứa đôi.
Một ngộ nhận nữa là nghĩ điều làm cho ta bị thu hút nơi người ấy cũng sẽ là điều mình ưa thích sau này. Nhưng trong thực tế cuộc sống sẽ cho thấy điều ngược lại. Vì sự tương phản vốn hút nhau trong thời làm quen, nhưng lại đẩy nhau trong đời sống thực. Ví dụ tính cách người phung phí cảm thấy bị hút bởi tính cách tiết kiệm, nhưng khi sống chung thực sự, người phung phí cảm thấy thật khó chịu khi sống với người tiết kiệm, hoặc một người trẻ con ấu trĩ cảm thấy bị thu hút bởi một người trưởng thành chín chắn. Nhưng khi sống chung thực sự, họ lại cảm thấy rất khó chịu.
Một ngộ nhận nữa là nghĩ rằng tình yêu là một sự trao đổi sòng phẳng và cân xứng.
Bạn thường nghĩ rằng mình cho bao nhiêu sẽ nhận lại được bấy nhiêu, mình xử đẹp, sẽ được xử đẹp trở lại. Nhưng trên thực tế lại không xảy ra như vậy. Thông thường, mức độ yêu, và trưởng thành trong tình yêu giữa hai người không bao giờ cân xứng cả. Trong hai người, thể nào cũng có một người có tình yêu lớn hơn, hay trưởng thành hơn trong tình yêu so với người kia. Nhà thơ Xuân Diệu cảm nhận rất rõ điều này:
“Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu.
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết”.
Bạn sẽ hụt hẫng dài dài nếu bạn mong chờ người bạn đời của bạn yêu bạn như bạn yêu người ấy. Càng tốt, càng hoàn hảo, bạn lại dễ bị hụt hẫng. Vì là người tốt lành, hoàn hảo, bạn sẽ thường có khuynh hướng nghĩ ai cũng tốt lành, hoàn hảo như bạn. Nhưng trên thực tế không phải như vậy. Tạo Hoá oái ăm thường lại để bạn gặp phải một người chẳng ra sao. Phải chăng là quy luật bù trừ. Con người vốn hoàn hảo nơi bạn lại càng khó chấp nhận sự bất toàn nơi người khác, trừ ra bạn là thánh nhân. Chính vì đối với bạn, tốt lành và hoàn hảo là quy luật, là chuyện tự nhiên, nên bạn không thể tin, hay khó có thể chấp nhận sự bất toàn hay đúng hơn sự xấu lại có thể tồn tại nơi kẻ khác. Và bạn chỉ những mong đợi sự tốt lành, tử tế nơi người yêu của mình. Nhưng thực tế, người ấy không được như vậy. Và như thế, bạn sẽ khổ sở triền miên, sẽ hụt hẫng dài dài.
Không hẳn bạn xử đẹp với người bạn đời của mình, bạn sẽ được xử đẹp trở lại, có khi sẽ ngược lại. Vì người ta không bao giờ cũng nghĩ và sống hợp lẽ phải đâu. Nếu người sống như thế, thì thế gian này đã là thiên đường từ lâu rồi. Người ấy không đối xử với bạn theo cách bạn nghĩ, mà là theo cách người ấy nghĩ, theo như người ấy là.
Vì thế, nếu bạn là một người quá tốt lành, gần như hoàn hảo, tốt hơn hết là bạn đừng bận tâm đến chuyện yêu đương, hay nếu có bạn phải nghĩ rằng yêu không hẳn là cho và nhận, mà trước tiên là sự chấp nhận đối tượng như chính họ là, là chấp nhận có thể cho mà không nhất thiết phải được nhận lại.
Một ngộ nhận khác là thần thánh hoá tình yêu, nghĩ rằng tình yêu là tất cả, có thể giải quyết mọi sự, trong đời sống hôn nhân gia đình. Ngộ nhận này thường xảy ra với những người có khuynh hướng lý tưởng hoá hay mơ mộng.
Không thể phủ nhận vai trò chính yếu của tình yêu trong đời sống hôn nhân gia đình nhưng nó không phải là tất cả vì con người vô cùng phức tạp, muôn màu muôn vẻ. Nơi một số người tình yêu chiếm chỗ nhất, nhưng nơi một số người khác tình yêu lại chiếm chỗ thứ yếu không quan trọng. Nhất là trong cuộc sống hiện nay, con người có rất nhiều thứ bận tâm đến độ có những người trong con tim họ gần như không có chỗ cho tình yêu. Hoặc có người thần thánh hoá tình yêu, có người  lại phàm tục hoá tình yêu. Vì thế, trong cuộc sống thực tế lứa đôi, một mặt ta phải làm sao vun trồng nuôi dưỡng cho tình yêu được lớn lên, vươn lên thành cây cao, nhưng mặt khác ta phải quan tâm đến những nhu cầu, đòi hỏi của người bạn đời nhiều khi rất tầm thường và đôi khi xem ra vô lý đối với chính mình, nhưng lại ít nhiều quan trọng đối với người ấy, và có tác động ngược lại với tình yêu.
Một ngộ nhận thường xuyên là bạn nghĩ rằng bạn có thể biến đổi người bạn đời theo ý muốn và mong đợi, dự phóng của bạn. Bạn thử nghĩ xem chuyện gì sẽ xảy ra khi cả hai cũng theo đuổi những ý muốn, những mong mỏi những dự phóng của riêng mình về người yêu nếu không là sự hụt hẫng cho cả hai. Bạn cho mình là ai khi bạn cho mình quyền biến đổi người bạn đời của mình, và không cho người ấy được quyền làm vậy. Và cho dù bạn có được cái quyền đó, bạn nghĩ bạn có thể biến đổi người bạn đời của mình được không? Kinh nghiệm bạn dạy cho bạn điều gì? Bạn thử nghĩ bạn có thể biến đổi được chính mình không? Chỉ cần một chút thật với lương tâm bạn đủ nhận ra đã bao nhiêu lần bạn tự đề nghị cho bản thân mình điều này, điều nọ, để thay đổi từ chuyện nhỏ nhất, từ những thói quen ứng xử thường ngày…, nhưng bạn đã thực hiện được hay chưa vậy? Hay bạn vẫn đang kéo lê thê từ năm này sang năm khác nguyên con người cũ rích của bạn? Ấy là chưa nói đến quan niệm, tính cách, những gì ăn sâu bám rễ vào tâm hồn, con người của bạn. Nếu bạn chưa từng có thể biến đổi con người của mình, sao bạn lại có thể nghĩ đến chuyện biến đổi một ai khác chứ? Chưa nói là bạn đang mâu thuẫn với chính mình, vì ngay cả điều bạn ước muốn và mong đợi hôm nay sẽ không hẳn tồn tại trong tương lai. Và có thể xảy ra là đến khi người bạn đời của mình biến đổi như bạn mong muốn thì bạn lại mong muốn điều khác mất rồi… Chưa nói là vì quen nhìn bạn đời của mình với cặp kính thành kiến, cho dù người ấy có thay đổi bạn vẫn chẳng nhận ra. Thật ra tình yêu có khả năng biến đổi. Nhưng vấn đề là tình yêu nào kia? Và tình yêu thật nó sẽ biến đổi chính bạn trước hết, để rồi từ đó bạn mới có khả năng nhận ra sự biến đổi nơi người khác và làm cho nó lan sang người khác.
Một ngộ nhận khác là nghĩ rằng tình yêu trong đời sống hôn nhân chỉ là tiếp nối của tình yêu trong thời gian tìm hiểu. Trong thời gian tìm hiểu thường người ta không nhận ra những khác biệt của nhau, vì cả hai chưa thực sự sống trọn vẹn con người của mình nhưng chỉ tìm cách thể hiện những ưu điểm của mình nhằm làm hài lòng thoả mãn nhau chính vì thế sự khác biệt chưa có cơ hội để thể hiện hay được san bằng dễ dàng. Nhưng khi sống đời hôn nhân, người ta mới hiện nguyên hình, mới thể hiện con người của mình một cách trọn vẹn, không còn quan tâm đến việc làm hài lòng người khác cho bằng sống thoải mái với chính mình. Chính khi ấy sự khác biệt mới thể hiện và có nguy cơ tạo nên sự hụt hẫng vì quá mới lạ, người ta không được chuẩn bị để chấp nhận cảm thông. Chúng ta thường nghe những người lập gia đình than phiền rằng: trước đây anh/cô ta đâu có thế. Anh /cô ấy thay đổi nhiều quá! Thật ra thì không phải thế, mà vì người ta chưa thấy điều đó thể hiện mà thôi, chứ không phải là trước đây không có nơi người ấy.
Một ngộ nhận nữa là nghĩ rằng bạn sống thật sự tự do, thật với chính mình trong khi thực sự bạn bị điều kiện hoá, khi mình sống theo những đòi hỏi cảm xúc mang tính cách nhất thời, chỉ phản ánh một cách phiếm diện về tình yêu, theo khuynh hướng, theo mốt tháo thứ tình dục của thời đại, theo lối sống của một thần tượng như thể một quy chiếu, không nhất thiết phản ánh sự thật về tình yêu. Sự thật phải chăng có thể đồng hoá với số đông? Phải chăng tính xác thực về tội phạm hay sự vô tội của một bị cáo lại lệ thuộc vào sự tán thành của số đông thành viên hội đồng xét xử, phán quyết của quan toà hay được quyết định bằng chính sự thật khách quan của vụ việc? Khuynh hướng sống theo đám đông là khuynh hướng của sự dễ dãi, của sự nô lệ, của sự hèn nhát, sự tha hoá, của sự nô lệ, đánh mất chính mình.
Một ngộ nhận khác đó là nghĩ rằng hôn nhân là một phép màu sẽ mang đến hạnh phúc cho bạn, hay nghĩ rằng người bạn đời của mình là cái máy tạo hạnh phúc, mà mình chỉ việc giang tay đợi chờ, và rồi hụt hẫng khi không thấy người ấy mang lại hạnh phúc cho mình.
Không ai có thể mang lại hạnh phúc cho mình, ngay cả Thượng Đế mà chỉ có thể giúp mình khám phá ra hạnh phúc từ chính bản thân mình mà thôi. Chỉ có bản thân mình thực sự mới có thể đem lại hạnh phúc cho mình mà thôi. Hay nói một cách khác, tôi có hạnh phúc hay không là tuỳ thuộc ở chính tôi. Hạnh phúc không phải là một thứ quà tặng. Hay nói đúng hơn, món quà hạnh phúc đã được ban tặng, nhưng tôi chỉ hạnh phúc khi nhận ra tôi đã nhận nó, nó đang chính trong tay tôi nhưng tôi lại vẫn tìm kiếm ở nơi đâu khác, cũng có thể vì tôi không nhận ra đó là hạnh phúc và chính vì thế tôi không hạnh phúc.
Nếu bạn nghĩ hạnh phúc là cái mà người bạn đời của bạn có thể mang đến cho bạn, vậy theo bạn, người bạn đời của bạn có thể mang lại cho bạn cái gì. Người ấy chỉ có thể ban tặng cho bạn một cái gì đó mà tôi chắc chắn không phải là hạnh phúc, vì ngay cả khi người ấy mang lại cho bạn một điều gì đó mà người ấy nghĩ sẽ làm cho bạn hạnh phúc, thì bạn có chắc là được hạnh phúc không? Nói hạnh phúc thì quá lớn, thôi tạm gọi là một niềm vui nho nhỏ. Dù người ấy mang lại cho bạn một điều gì đó mà người ấy nghĩ là niềm vui đối với bạn, nhưng không chắc đó là niềm vui của bạn. Và cho dù nó có thể làm cho bạn vui, thì bạn phải nhận thấy là bạn vui hay không không tuỳ thuộc vào món quà người ấy tặng, mà tuỳ ở cái nhìn của bạn về món quà ấy, hay nói nôm na là có người bảo: Con tạ ơn Trời Phật đã ban cho con một người chồng đạo đức. Nhưng cũng một người đàn ông đó vô phúc rơi vào tay của một người không lấy đạo đức làm trọng, thì lại than vắn thở dài: Sao Trời Phật lại để cho con vô phúc gặp một thằng chồng vừa khù khờ vừa khó tính…
Hạnh phúc không bao giờ là sự thụ động lệ thuộc vào người khác, phụ thuộc vào điều người khác có thể mang đến cho mình.
Người khác chỉ có thể mang lại cho bạn một niềm vui hay một nỗi buồn nào đó chứ không bao giờ là nguyên nhân thực sự của hạnh phúc hay bất hạnh của bạn. Người ấy chỉ có thể mang đến nhiều thay đổi cho cuộc đời của bạn mà thôi.
Hôn nhân là cùng nhau xây mái nhà chung. Hạnh phúc nếu có là niềm vui bạn đặt vào việc xây ngôi nhà chung ấy, là thiện chí mang lại niềm vui cho người bạn đời của bạn.
Có lẽ có bạn sẽ lấy làm hối tiếc sau khi theo dõi những dòng chia sẻ trên đây, vì nghĩ rằng tình yêu đã được giải mã thì còn gì là hấp dẫn nữa, bởi nó hết có đèn mờ, bóng tối, lung linh mờ ảo, hay nghĩ rằng từ nay trở đi, quan hệ tình cảm của mình chẳng còn chỗ cho sự lãng mạn nữa, cho cảm giác lâng lâng đê mê nữa, cho ảo giác, ảo tưởng mà nhờ đó mình cảm thấy sung sướng như Freud nói: “Người đời sung sướng chẳng qua sống nhờ ảo tưởng. Bạn cứ lấy khỏi con người sự ảo tưởng đi, bạn cướp mất nơi họ mọi hạnh phúc”. Hoặc một số bạn nam không  thích bạn gái mình biết được những điều này, vì như thế mình hết mong dụ dỗ bạn  gái của mình, hết mong sớm chinh phục con tim của họ. Hoặc có một số bạn gái lại cảm thấy mình không còn cái thú bị dụ và để cho mình bị dụ để thụ hưởng cảm giác ngấy ngất trong tình yêu nhờ sống trong ảo tưởng. Hoặc các bạn cảm thấy lương tâm cắn rứt, áy náy ít nhiều vì những gì các bạn đã làm hay để cho chúng xảy ra trong quá khứ hay hiện tại, và không  cảm thấy lương tâm thoải mái, tự do, muốn làm gì thì làm như trước nữa. Hoặc các bạn sẽ cảm thấy không còn hứng thú như trước nữa, vì sự việc không đơn giản như bạn nghĩ. Chuyện yêu đương không phải dễ dàng như chuyện ăn uống, ăn mặc, sắm sửa.
Có thể đúng một phần nào đó, nhưng có một điều chắc chắn là các bạn sẽ cảm thấy mình trưởng thành, chín chắn hơn trong suy nghĩ, nhận định, lời nói và việc làm, sống có ý thức và trách nhiệm hơn trong tình yêu, và trong mọi mối quan hệ tình cảm, sống xứng đáng với nhân phẩm con người, chứ không dễ dãi để mình chìu theo bản năng, các bạn có thể mang lại niềm vui, sự bình an và hạnh phúc đích thực cho chính mình, cho người yêu của mình và cho người bạn đời của mình sau này, tránh cho nhau những nỗi đau khổ và sự dằn vặt. 
Trương Đình Giai
SƯU TẦM